Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3

- Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không” mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học, do thiếu kinh nghiệm và thực hiện không đúng quy trình, hoặc quá nôn nóng muốn có ngay kết quả, nên thường thất bại hoặc đạt kết quả không cao.

- Nhằm tập hợp kinh nghiệm, xây dựng quy trình phụ đạo, giúp giáo viên có định hướng và giải pháp phụ đạo tốt hơn, có hiệu quả hơn. Nhằm chia sẽ các kinh nghiệm giáo dục HS chưa hoàn thành các môn học với quý đồng nghiệp và tổng hợp nhiều hơn các giải pháp có thể áp dụng vào giảng dạy, tháo gở khó khăn trong công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học trong giai đoạn hiện nay.

Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. . Trong thực tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng học tập cho học sinh nhất là bậc tiểu học, bởi vì tiểu học là bậc học nền móng. Là một giáo viên tiểu học tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là rất lớn, phải làm gì để nâng cao chất lượng học tập cho các em học sinh, đặc biệt là môn toán lớp 3 nói riêng và các môn học khác nói chung mà tôi đang tiến hành giảng dạy. Từ suy nghĩ ấy cùng với tình hình thực tế của lớp, tôi đã đúc rút được một vài kinh nghiệm trong quá trình giúp học sinh chưa hoàn thành môn toán của lớp. Đó là: “Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3”, tôi xin đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế của học sinh khi giảng giải bài toán có lời văn, bài toán tìm thành phần chưa biết Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần cho tôi định hướng giảng dạy tốt các môn nói chung và môn toán nói riêng. Qua giảng dạy rèn luyện tôi hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển trí tuệ và năng lực của học sinh. Trong đó việc học tốt môn toán là cơ sở giúp các em học tốt các môn khác, bước lên lớp trên một cách thuận lợi hơn.

 

doc 18 trang thuychi01 25665
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2
2.2. Thực trạng
2
2.2.1. Nguyên nhân 
3
2.2.2. Đánh giá thực trạng
3
2.3. Một số giải pháp.
5
2.3.1. Đánh giá học sinh thường xuyên.
5
2.3.2. Luyện cho học sinh thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.
5
2.3.3. Giúp học sinh sử dụng các thuật ngữ toán học để viết lời giải chính xác, khoa học.
8
2.3.4. Hướng dẫn giải toán có lời văn.
9
2.3.5. Rèn luyện kĩ năng học tập: 
12
2.3.6.Thiết kế dạng bài tập vừa sức, phù hợp với học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. 
12
2.3.7. Xây dựng phong trào giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
13
2.3.8. Kịp thời khuyến khích, khen thưởng sự cố gắng, tiến bộ của học sinh chậm tiếp thu sau mỗi tuần. 
14
2.3.9. Phối kết hợp với nhà trường và phụ huynh để có những biện pháp rèn học sinh đạt kết quả cao hơn.
14
2.4. Hiệu quả
15
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
15
3.2. Kiến nghị
16
1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lý do chọn đề tài : 
- Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không” mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học, do thiếu kinh nghiệm và thực hiện không đúng quy trình, hoặc quá nôn nóng muốn có ngay kết quả, nên thường thất bại hoặc đạt kết quả không cao. 
- Nhằm tập hợp kinh nghiệm, xây dựng quy trình phụ đạo, giúp giáo viên có định hướng và giải pháp phụ đạo tốt hơn, có hiệu quả hơn. Nhằm chia sẽ các kinh nghiệm giáo dục HS chưa hoàn thành các môn học với quý đồng nghiệp và tổng hợp nhiều hơn các giải pháp có thể áp dụng vào giảng dạy, tháo gở khó khăn trong công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học trong giai đoạn hiện nay. 
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. . Trong thực tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng học tập cho học sinh nhất là bậc tiểu học, bởi vì tiểu học là bậc học nền móng. Là một giáo viên tiểu học tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là rất lớn, phải làm gì để nâng cao chất lượng học tập cho các em học sinh, đặc biệt là môn toán lớp 3 nói riêng và các môn học khác nói chung mà tôi đang tiến hành giảng dạy. Từ suy nghĩ ấy cùng với tình hình thực tế của lớp, tôi đã đúc rút được một vài kinh nghiệm trong quá trình giúp học sinh chưa hoàn thành môn toán của lớp. Đó là: “Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3”, tôi xin đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế của học sinh khi giảng giải bài toán có lời văn, bài toán tìm thành phần chưa biết Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần cho tôi định hướng giảng dạy tốt các môn nói chung và môn toán nói riêng. Qua giảng dạy rèn luyện tôi hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển trí tuệ và năng lực của học sinh. Trong đó việc học tốt môn toán là cơ sở giúp các em học tốt các môn khác, bước lên lớp trên một cách thuận lợi hơn. 
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
 Như đã nêu trên, mục đích nghiên cứu là mong muốn tập hợp nhiều ý kiến, nhiều giải pháp và kinh nghiệm, để chia sẻ, trao đổi nhằm thực hiện có chất lượng hơn công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học ; Giúp giáo viên dễ dàng áp dụng mang lại hiệu quả cao hơn trong giáo dục HS chưa hoàn thành các môn học . Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 
Thực hiện tốt “Nói không với học sinh ngồi nhầm lớp”, thực hiện đúng mục tiêu giáo dục đã đề ra. Tôi luôn xác định cho mình nhiệm vụ quan trọng trong việc giảng dạy các môn học nói chung và môn toán lớp 3 nói riêng. Làm thế nào để nâng cao chất lượng môn toán cho các em từ chưa hoàn thành lên hoàn thành, từ hoàn thành lên hoàn thành tốt, từ hoàn thành tốt lên hoàn thành xuất sắc. Để đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay, học sinh phải nắm được một hệ thống kiến thức toán học cơ bản hiện đại và các kĩ năng cơ bản sau: 
Vận dụng kiến thức, thực hành, suy luận, phát triển các năng lực nhận thức, trí tuệ, tư duy độc lập sáng tạo, có tư tưởng, tình cảm và thái độ đúng đắn với sự kiện, hiện tượng thực tiễn, chống hiện tượng học sinh lưu ban, học sinh bỏ học hay sợ học khi chưa hoàn thành môn học. Giúp các em trở nên ham học hơn, nó sẽ là những công cụ cần thiết để các em học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học Toán 3.
- Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3.
- HS lớp 3B Trường Tiểu học Đông Vệ 2 chưa hoàn thành môn Toán.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 3B.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp tổng hợp.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận: 
Năm học 2017-2018 là năm học tiếp tục thực hiện Thông tư 22 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo thông tư số 30/2014/ TT-BGDĐT  ngày 28 tháng 8 năm 2014 của bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo. Việc đánh giá học sinh về Năng lực ở các mức: Hoàn thành tốt; Hoàn thành và chưa hoàn thành. Về phẩm chất: Tốt, Đạt và Cần cố gắng, đã phần nào giúp học sinh tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Đối với giáo viên, việc điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, ...kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ học sinh, có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh là vô cùng quan trọng.
2.2. Thực trạng:
 - Năm học 2017 – 2018 tôi nhận giảng dạy lớp 3, lớp tôi phụ trách có 37 học sinh, một phần chất lượng chưa cao vì chủ yếu các em con nhà buôn bán ít được bố mẹ quan tâm, tạo điều kiện trong học tập, vì vậy các em còn hạn chế về nhiều mặt nhất là khả năng diễn đạt. 
- Ở trong một lớp học, cùng lứa tuổi với nhau nhưng do sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng một số em còn phát triển chậm. Khi phân tích, tổng hợp các em chỉ dựa vào các dấu hiệu dễ thấy ở bên ngoài, kém linh hoạt, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em chưa tốt, thiếu siêng năng học tập. Hoạt động tư duy kém, sử dụng ngôn ngữ toán học còn lúng túng, nhiều chỗ lẫn lộn, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Các em học yếu, tính chậm chủ yếu dựa vào trực quan hay lời gợi ý của giáo viên mới tính được, nhớ bài một cách máy móc. Chính vì vậy mà khả năng vận dụng để làm bài tập của các em rất hạn chế đặc biệt là toán có lời văn. Việc viết lời giải đối với các em cũng gặp rất nhiều khó khăn. Trong các đề kiểm tra của trường, phần giải toán có lời văn chiếm một số điểm cũng khá cao. Một bài giải hoàn chỉnh phải bao gồm lời giải và phép tính, nếu viết câu lời giải sai thì xem như hỏng cả bài toán. Do đó, để giúp những em chưa hoàn thành môn toán ham thích và học được toán đặc biệt là ghi nhớ được bảng nhân, chia và làm tốt bài toán có lời văn là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết
- Nhìn chung lớp tôi chủ nhiệm có nhiều em thực hiện chưa tốt các phép tính nhân, chia trong chương trình toán 3 vì các em chưa thật sự thuộc bảng nhân, chia đã học một cách trôi chảy. Về toán có lời văn đa số các em còn chưa hoàn thành đặc biệt là khâu viết câu lời giải các em còn nhiều lúng túng. 
 2.2.1 Nguyên nhân 
- Qua thực tế giảng dạy và dự giờ tôi thấy biện pháp tổ chức cho học sinh tự khám phá kiến thức khi dạy học môn toán chưa cao. 
- Học sinh chưa nắm chắc cách đặt tính và thực hiện phép tính cũng như giải toán có lời văn.
- Trong tiết dạy - học toán giáo viên ít tổ chức trò chơi trong học tập nên tiết học gò bó, căng thẳng 
 2.2.2. Đánh giá thực trạng
* Thực trạng từ phía học sinh: 
- Qua quá trình tìm hiểu và từ thực tế dạy học của mình, tôi thấy những học sinh được xếp vào học lực chưa hoàn thành môn Toán 3, phần lớn có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng. Có khá nhiều lí do dẫn đến học sinh có kết quả môn Toán hạn chế như: chưa nắm chắc kiến thức ở lớp dưới (chưa thuộc bảng nhân, bảng chia ,cộng trừ nhẩm còn chậm...; khả năng tiếp thu kiến thức, năng lực tư duy yếu; khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, lười học tập, suy nghĩ; việc chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền; một số em lại học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức để thực hành tính, kĩ năng giải toán; một số em cũng chưa được sự quan tâm của gia đình, người thân, đi học thiếu sách vở, đồ dùng học tập do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc hoàn cảnh gia đình đặc biệt. 
- Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng các đối tượng học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 3 thường không thực hiện được kĩ năng tính, nhất là gặp rất nhiều khó khăn khi nhân (chia) với (cho) số có nhiều chữ số, hay lẫn dạng và chưa phân được cách giải các dạng toán có lời văn mới được dạy trong chương trình (Toán Rút về đơn vị (dạng 1: có một phép nhân và một phép chia; dạng 2: có hai phép chia), Toán về Tìm một phần mấy của một số .), việc nhận dạng các hình hình học hay kĩ năng chuyển đổi các đơn vị đo lường còn chậm...
- Học sinh chưa chú ý tập trung còn hay mất trật tự, làm việc riêng trong giờ học. Không luyện tập thực hành khi giáo viên giao bài về nhà.
- Nhiều em tiếp thu bài chậm vì sự phát triển tư duy chưa cao, chủ yếu là tư duy cụ thể, ghi nhớ máy móc, việc huy động vốn kiến thức thực tiễn của các em chưa nhiều. 
*Thực trạng từ phía giáo viên: 
Đối với giáo viên dạy lớp 3: tôi thấy mình đã cố gắng rất nhiều. Tuy nhiên, từ chính bản thân mình nói riêng và các đồng nghiệp dạy lớp 3 nói chung, tôi thấy còn một số hạn chế như sau:
- Tôi thấy mình và đồng nghiệp chưa chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh tiếp thu chậm, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút để giúp đỡ các em. 
- Trong những năm qua, tôi đã có xây dựng các bài tập củng cố kiến thức để phụ đạo và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành, tuy nhiên hệ thống bài tập mà tôi xây dựng đang còn chung chung, chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, nhất là với đối tượng học sinh tiếp thu chậm. 
- Giáo viên chưa chú trọng giải pháp tâm lí cũng như sự động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt khi các em tiến bộ. 
 * Thực trạng từ phía gia đình học sinh.
Từ thực tiễn dạy học của mình, ngoài những học sinh còn chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 3 do trí tuệ, còn đa số các em còn lại đều rơi vào những gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn, không quan tâm đến việc học của con, hoặc những gia đình quan tâm thì bố mẹ lại không có phương pháp sư phạm, hoặc không nắm được cách giải Toán Tiểu học, hoặc không có kiến thức để giúp hoặc hỗ trợ chợ con cho việc học ở nhà. Chính vì vậy, các đối tượng học sinh này, có nâng bậc và tiến bộ được hay không, phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào cô giáo dạy trên lớp.
 * Chất lượng khảo sát đầu năm học 2017 - 2018 môn Toán lớp 3B Trường Tiểu học Đông Vệ 2 – TP Thanh Hoá như sau.
Hoàn thành Tốt
Hoàn thành
Chưa Hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
10
27,1%
18
48,6%
9
24,3%
 * Dự giờ đồng nghiệp 2 tiết: 
 Bài: Cộng các số có ba chữ số(có nhớ 1 lần) 
 Bài: Phép trừ các số trong phạm vi 10 000 
Qua khảo sát và dự giờ đồng nghiệp tôi rút ra một số nhận xét như sau:
Nhược điểm giờ dạy của đồng nghiệp:
- Học sinh còn chưa chủ động trong việc vận dụng cách đặt tính cộng có nhớ các số có hai chữ số với số có hai chữ số ở lớp 2 để tìm ra cách đặt tính ở phần bài mới.
- Phần bài mới GV nên cho học sinh tự nêu lên cách đặt tính và cách tính của mình.
- Phần luyện tập: sau mỗi bài tập GV nên cho học sinh nhận xét nêu lại cách đặt tính, cách tính để khắc sâu kiến thức của bài.
- Chưa phát huy được tính độc lập sáng tạo của học sinh. 
- Học sinh nắm bài máy móc.
- Học sinh yếu kém còn lúng túng khi thực hiện. 
Với chất lượng khảo sát đầu năm tôi rất băn khoăn, trăn trở, tự đặt ra câu hỏi: Tại sao chất lượng học sinh môn toán lại yếu như vậy? Tôi đã mạnh dạn trao đổi với ban giám hiệu, chị em đồng nghiệp trong trường và trường bạn. Tôi đi dự giờ những GV có kinh nghiệm trong chuyên môn để đưa ra những biện pháp để rèn kĩ năng thực hiện phép tính cộng trừ cũng như giải toán cho học sinh chưa hoàn thành lớp 3.
 - Từ đó tôi suy nghĩ tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp, biện pháp mới, để giúp học sinh có kĩ năng, thói quen và căn bản trong quá trình học toán. 
2.3. Một số giải pháp.
 2.3.1. Đánh giá học sinh thường xuyên.
Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện về kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh, được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và các hoạt động giáo dục. Đánh giá thường xuyên cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học.
 * Đánh giá thường xuyên về học tập:
- Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời.
- Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập để học và làm tốt hơn.
- Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên về các nhận xét, đánh giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với giáo viên động viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện.
2.3.2. Luyện cho học sinh thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.
 - Được phân công giảng dạy lớp 3, theo tôi nghĩ, học sinh học tốt môn toán thì không thể không luyện cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học sinh có thuộc bảng nhân, chia mới vận dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc biệt là các phép chia có số bị chia 3, 4 chữ số và giải toán hợp.
 - Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia tôi làm như sau:
 + Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và tôi chốt lại cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau:
Ví dụ: Bảng nhân.
 * Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau.
 * Các thừa số thứ hai trong bảng nhân đều khác nhau theo thứ tự là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Mỗi thừa số này liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. ( trong bảng nhân các thừa số thứ hai nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số 0). 
 * Các tích cũng khác nhau và mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa số thứ nhất. (Tích thứ nhất trong bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối cùng trong bảng nhân gấp thừa số thứ nhất 10 lần).
Ví dụ: Bảng chia 9.
 * Các số bị chia trong bảng chia 9 là các tích của bảng nhân 9, và hơn kém nhau 9 đơn vị.
 * Số chia trong bảng chia 9 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 9 đều là 9.
 * Các thương của bảng chia 9 là thừa số thứ hai của bảng nhân 9.
 + Hàng ngày, đầu giờ học môn toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động, tôi thay vào cả lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng nhân 2, bảng chia 2 đến bảng nhân, chia hiện học.
 + Sau mỗi giờ học toán tôi thường kiểm tra những học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia từ 2 đến 4 em.
 + Tôi thường xuyên kiểm tra học sinh bảng nhân, chia bằng cách in bảng nhân, chia trên giấy A4, nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần của phép nhân, chia trong bảng. Vào cuối tuần dành thời gian khoảng 10 phút cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân, chia như yêu cầu. Tôi và học sinh cùng nhau nhận xét, khen ngợi học sinh hoàn thành bài tốt, nhắc nhở, động viên các em chưa hoàn thành bài.
 + Tôi cũng thường xuyên cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa thuộc vào vở riêng. Ngày sau trình bày và đọc cho tổ trưởng nghe vào đầu giờ, sau đó tổ trưởng báo cáo cho giáo viên. 
 Ở trên lớp, giáo viên quan tâm, phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức mà học sinh mắc phải. Có học sinh chưa thuộc bảng nhân (chia) chưa thành thạo với (cho) số có một chữ số, cũng có học sinh kĩ năng trừ nhẩm chưa tốt. Ví dụ trước khi dạy cho các em kĩ năng nhân (chia) thì giáo viên cần xem trong lớp những em nào còn chưa thuộc bảng nhân (chia ) thành thạo hay chưa trừ nhẩm thành thạo thì cần có bài tập để lấp những lỗ hổng kiến thức này. Có thể ra các dạng bài tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Cụ thể:
Bài 1: Tính nhẩm:
 7 9 = ............ 6 8 = ............ 42 : 7 = ............. 
 64 : 8 = ............	 54 : 6 = ........... 36 : 4 = .................
.Bài 2: Đặt tính rồi tính
 a, 589 + 72 b, 157 - 78
 c, 268 7 d, 384 : 7
	 Để thực hiện tốt kĩ năng tính ở chương trình Toán 3, học sinh cần phải làm được các bài tập trên, bởi nếu không thuộc bảng nhân, chia, không trừ nhẩm được hay chưa có kĩ năng nhân (chia) thì hậu quả kéo theo là các em sẽ không thể nhân (chia) 
 * Để tạo hứng thú trong học tập và khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi.
 - Để giờ học thêm sinh động và đạt hiệu quả, trò chơi được sử dụng trong tiết học toán như một hình thức “ Học mà chơi, chơi mà học”.
 Thông qua trò chơi học sinh được củng cố lại những kiến thức vừa học một cách tự nhiên, rất hào hứng sôi nổi không khí lớp học tránh được sự gò bó, căng thẳng. 
Ví dụ: Đối với bài tập 4: đúng ghi Đ, sai ghi S ( Bài: Trừ các số có 3 chữ số có nhớ một lần)
Nhóm1 Nhóm 2
 237 - 
 628 -
 555 - 
 160 = 
 256 = 
 44 = 
 177 
 426
 995
 237 -
 628 -
 555 -
 160 =
= 
44 =
177
426
995
- Tôi tổ chức cho 2 nhóm mỗi nhóm 3 em lên chơi trò chơi “Ai nhanh hơn” 
 - Khi học sinh hoàn thành giáo viên cùng học sinh cả lớp nhận xét vì sao điền đúng, vì sao điền sai (lúc này học sinh sẽ nêu lại cách thực hiện đúng. Trên cơ sở bài cho sẵn học sinh chỉ việc nhẩm theo hàng, theo cột mà học sinh đã được học để tìm ra kết quả đúng nhất, nhanh nhất bằng khả năng nhẩm của mình). 
GV tuyên bố đội thắng cuộc. Đội thắng cuộc được các bạn cổ vũ, động viên nên các em rất hăng hái, tiết học vui, sôi nổi, đồng thời tạo mối quan hệ gắn bó gần gũi giữa thầy và trò.
- Thông qua trò chơi rèn cho học sinh tính nhanh nhẹn và kĩ năng thực hiện trừ số có 3 chữ số ( có nhớ 1 lần )
 Ví dụ: Trò chơi ôn lại bảng nhân ( trò chơi lô tô)
 Tôi chuẩn bị nhiều bảng theo thứ tự đảo ngược như sau:
8
20
16
32
12
24
40
28
36
40
20
32
16
24
12
8
36
28
 Giáo viên phát cho mỗi em một bảng. Giáo viên hoặc lớp trưởng lần lượt đọc mỗi lần 1 phép tính trong bảng nhân 4 nhưng không nêu kết quả. Học sinh nghe và tự tìm kết quả đánh dấu vào ô có kết quả đúng. Nếu học sinh nào điền đúng, đủ 3 ô hàng ngang hoặc hàng dọc thì em đó thắng. Giáo viên quan sát lại khen thưởng học sinh thắng cuộc, khuyến khích học sinh làm chưa tốt. 
 Tiếp tục như những cách làm trên cho đến khi cả lớp đều thuộc từ bảng nhân, chia 2 đến 9. Qua thời gian không lâu lớp tôi có 15, 16 học sinh thuộc tất cả bảng nhân chia từ 2 đến 9. Chỉ còn một HS do tư duy của em có phần chậm hơn so với những bạn cùng lứa tuối nên em thuộc chưa trôi chảy, thường thì giáo viên hoặc các bạn khác phải nhắc một vài phép tính khi em được kiểm tra
 2.3.3. Giúp học sinh sử dụng các thuật ngữ toán học để viết lời giải chính xác khoa học . 
 Với một số bài toán có liên quan đến đại lượng như : độ dài, thời gian Học sinh thường viết như sau :
 Ví dụ 1 : Số mét hai cuộn vải dài là : 
 Ví dụ 2 : Chiếc tem thư có số đồng là: 
 Ví dụ 3 : Số giờ làm công việc đó bằng máy là :
 Với cá

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phu_dao_hoc_sinh_chua.doc