Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bữa ăn và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bữa ăn và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm lớn nhất của toàn xã hội. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đang tạo nhiều lo lắng cho người dân,và nó đã được rất nhiều các phương tiện truyền thông, báo chí, đài truyền hình Việt Nam phản ánh một cách rất chân thực trong các bản tin thời sự. Nhiều sự kiện đã được phản ánh như việc tiếp tục sử dụng những hóa chất cấm trong nuôi trồng, chế biến nông thủy sản, thực phẩm, hoa quả, hay việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng; do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường, một số loại thực phẩm không rõ nguồn gốc đang gây ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và người tiêu dùng.

Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm và thức ăn vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.

Để đảm bảo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi có tính liên ngành và là công việc của toàn dân. Do vậy, mỗi người đều phải có trách nhiệm với sức khỏe của chính mình và của cộng đồng.

 

doc 36 trang thanh tú 22 08/10/2022 5884
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bữa ăn và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm lớn nhất của toàn xã hội. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đang tạo nhiều lo lắng cho người dân,và nó đã được rất nhiều các phương tiện truyền thông, báo chí, đài truyền hình Việt Nam phản ánh một cách rất chân thực trong các bản tin thời sự. Nhiều sự kiện đã được phản ánh như việc tiếp tục sử dụng những hóa chất cấm trong nuôi trồng, chế biến nông thủy sản, thực phẩm, hoa quả, hay việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng; do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường, một số loại thực phẩm không rõ nguồn gốc đang gây ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và người tiêu dùng.
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm và thức ăn vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Để đảm bảo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi có tính liên ngành và là công việc của toàn dân. Do vậy, mỗi người đều phải có trách nhiệm với sức khỏe của chính mình và của cộng đồng.
Đối với ngành giáo dục nói chung, trong đó bậc học mầm non nói riêng thì việc đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm là vô cùng quan trọng bởi nhà trường tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại trường. Nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt ra cho chúng ta là phải có đội ngũ làm công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục có đủ điều kiện để thực hiện mục tiêu cơ bản trên. Trong đó, đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên có vai trò then trốt và là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong trường mầm non. Cùng với nhiệm vụ phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, hiện nay vấn đề đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ học sinh. Trong những năm gần đây, đã xẩy ra rất nhiều vụ ngộ độc thực phẩm ở các địa phương, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của nhiều người. Nhà trẻ, mẫu giáo là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn non nớt, chưa chủ động, chưa có ý thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nếu để xẩy ra ngộ độc thực phẩm thì hậu quả thật khó khôn lường. Vì vậy, giáo dục dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng mô hình thực phẩm sạch, đề phòng ngộ độc thức ăn là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mặc dù nhà trường chúng tôi chưa có trường hợp nào ngộ độc thức ăn nhưng việc tuyên truyền trong nhà trường luôn luôn được quan tâm, chú ý. Chất lượng bữa ăn đã được cải thiện, gia đình trẻ và lực lượng xã hội đã có sự thay đổi trong nhận thức hành động về tầm quan trọng của công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong độ tuổi mầm non. Nhà trường đã chú ý đến đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng phục vụ bán trú. Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục các bậc cha mẹ về vệ sinh an toàn thực phẩm đã được nhà trường thực hiện tương đối có hiệu quả. 
Trước mắt, thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe cho trẻ nhưng đồng thời cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có thực phẩm nào được coi là có giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh.
Về lâu dài thực phẩm không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe của trẻ mà còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm không đảm bảo vệ sinh trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng ồ ạt, dễ nhìn thấy, nhưng nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các dị tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh. Trẻ ở lứa tuổi mầm non càng nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh tật nhiều hơn.
 Tóm lại vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng đối với sức khỏe trẻ thơ, nó góp phần cho thế hệ trẻ được khỏe mạnh, thông minh, sáng tạo có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với trường mầm non thì việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ luôn được đặt 
lên là nhiệm vụ hàng đầu. Và vô cùng quan trọng, bởi “trẻ em hôm nay là chủ nhân tương lai của đất nước mai sau”. Vì vậy đòi hỏi người làm công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ có kiến thức hiểu biết về chế độ dinh dưỡng cũng như đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nuôi dưỡng là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ em mầm non. Nuôi dưỡng phải đảm bảo chất lượng, nó có tác dụng tăng cường và bảo vệ sức khoẻ cho trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện, tạo điều kiện thực hiện tốt nội dung giáo dục đó là nền móng đầu tiên cho việc hình thành nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào tiểu học. Muốn có chất lượng nuôi dưỡng tốt trong trường mầm non phải làm tốt công tác nuôi dưỡng. 
	Bản thân tôi là một nhân viên nuôi dưỡng trong trường. Tôi luôn suy nghĩ phải làm thế nào để lựa chọn được những thực phẩm sạch, tươi ngon, tạo ra các món ăn có ngũ sắc hấp dẫn để trẻ ăn ngon miệng, hấp dẫn, phù hợp với cô và trẻ mà vẫn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
	Bởi món ăn không chỉ giải quyết một nhu cầu là duy trì sự sống mà đảm bảo cho sự phát triển thể chất tinh thần, hành động, trí tuệ hay tạo cho con người có chỉ số IQ cao.. Do vậy không nên coi thường cách chế biến các món ăn cho trẻ mà phải biết nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể và giá trị dinh dưỡng của các nhóm thực phẩm , từng loại thực phẩm để biết cách chọn cân đối cho phù hợp với nhu cầu của trẻ và đúng với thực đơn theo kế hoạch nhà trường.
	Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số kinh nghiệm về chất lượng bữa ăn và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non”. 
PHẦN II: GIẢI QUYÊT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Đặc điểm tình hình.
Trường Mầm non Cổ Bi nơi tôi công tác là trường chuẩn quốc gia từ năm 2011,trường có hai địa điểm cách nhau 500m. Năm học 2017- 2018 tổng số trẻ ra lớp là 930 cháu, chia làm 18 nhóm lớp, trong đó có 03 nhóm nhà trẻ, 15 lớp mẫu giáo. Tổng số CB-GV-NV toàn trường là 90 đồng chí.Trong đó nhân viên nuôi dưỡng có 17 đồng chí .Tuy diện tích nhà trường không rộng nhưng có môi trường sư phạm xanh-sạch-đẹp số học sinh ăn bán trú tại trường 100%. Vì vậy công tác chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thự phẩm là mục tiêu hàng đầu của nhà trường.
Với số nhân viên là 17 đồng chí song ½ số nhân viên có thâm niên công tác từ 4 đến 5 năm do vậy kinh nghiệm nấu ăn ngon, hấp dẫn cho cô và trẻ.
Trường có 2 điểm trường phải chuyển cơm tới 1 điểm
Qua thực tế những năm công tác, tôi đã gặp phải một số thuận lợi và khó khăn như sau:
1.1. Thuận lợi:
 Phòng giáo dục và đào tạo đã mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nuôi dưỡng. Đồng thời, là sự chỉ đạo thường xuyên của ban giám hiệu nhà trường về cách chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Có sự định hướng, khuyến khích cho tổ nuôi phát huy sáng tạo, tìm tòi trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng bữa ăn mới.
- Ban giám hiệu đã tích cực mua sắm các đồ dùng dụng cụ hiện đại phục vụ nuôi dưỡng cho trẻ hàng ngày, góp phần an toàn hơn trong việc chế biến món ăn.
- 100% nhân viên nuôi dưỡng đều được đào tạo qua trường lớp đúng chuyên ngành, đạt chuẩn về chuyên môn. Trình độ trên chuẩn: 94,1 %
- Đội ngũ giáo viên đoàn kết, phối kết hợp thường xuyên và góp ý với tổ nuôi về chất lượng các bữa ăn để có sự điều chỉnh phù hợp với khẩu phần ăn của trẻ.	
- Các nhân viên trong tổ nuôi đoàn kết, yêu nghề, có đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình trong công việc, không quản ngại khó khăn.
- Các hợp đồng mua lương thực, thực phẩm có đủ tư cách pháp nhân.
- Bản thân tôi đã nỗ lực học tập, tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ nấu ăn ngành mầm non và luôn học hỏi thêm trên sách báo, tạp chí chuyên ngành, các phương tiện thông tin đại chúng, học hỏi qua bạn bè, đồng nghiệp
1.2. Khó khăn:
- Mặc dù kinh tế phát triển nhưng chủ yếu phụ huynh làm nông nghiệp nên trình độ văn hóa còn hạn chế, nhiều gia đình còn chưa quan tâm đến sức khỏe của con em mình vì vậy còn một số trẻ suy dinh dưỡng.
- Trường có 01 bếp ăn, 2 khu, phải chuyển cơm đến 1 khu lẻ vì vậy việc sắp xếp nhân viên theo dây chuyền còn nhiều bất cập. 
- Giá cả thị trường biến động không ổn định cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến việc đảm bảo khẩu phần ăn của trẻ.
- Một số món ăn cho trẻ còn chưa phong phú chưa hấp dẫn.
 - Phụ huynh chưa chú trọng đến bữa ăn sáng của trẻ, thường mua thức ăn có sẵn ngoài thị trường, khâu vệ sinh cá nhân trẻ còn chưa được quan tâm một cách thường xuyên.
 	Đứng trước tình hình thực tế của trường như vậy, bản thân tôi đã đưa ra một số biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, phát huy những thuận lợi để hoàn thành kế hoạch và nhiệm vụ được giao đạt được kết quả cao nhất.
II/ Các biện pháp thực hiện
 	 Trong cơ thể vật chất bị tiêu hao và bị phân giải để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống. Để bù vào phần vật chất bị tiêu hao đó, đồng thời để cơ thể luôn luôn đổi mới và phát triển thì cơ thể phải lấy chất dinh dưỡng từ bên ngoài vào cơ thể dưới dạng thức ăn. 
 Có nhiều biện pháp tạo ra sự muốn ăn của cơ thể và một trong những biện pháp đó là thành lập ở trẻ những phản xạ ăn uống. Khi phản xạ này được thành lập một cách bền vững thì chỉ đến các giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hoá bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó ta có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ ăn ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hoá nhanh. Cảm giác muốn ăn của trẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Thức ăn hấp dẫn, phòng ăn sạch sẽ, thoáng mát, việc sắp xếp, bố trí đồ đạc trong phòng ăn là những nhân tố quan trọng tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể trẻ.
	Ngoài ra cách chế biến món ăn, mùi thơm của thức ăn sẽ kích thích dịch tiêu hoá, khi ta đói mà ngửi thấy mùi thơm của thức ăn thì ngay lúc đó cơ quan tiêu hoá sẽ tiết ra dịch.
	Đối với trẻ mầm non, nhu cầu về dinh dưỡng rất cao. Qua nghiên cứu cho thấy trẻ em cần nhiều thức ăn hơn người lớn. 
	Trong một ngày thức ăn được phân phối cho bữa trưa là nhiều calo hơn, khoảng 30 – 40% khẩu phần ăn hàng ngày, bữa trưa cần cung cấp năng lượng cho trẻ để bù đắp cho sự tiêu hao năng lượng do hoạt động và đảm bảo năng lượng cho trẻ hoạt động tiếp theo trong ngày. Trẻ đến trường mầm non ngay từ buổi sáng, sau đó tham gia vào các hoạt động trong chế độ sinh hoạt một ngày như: Thể dục buổi sáng, hoạt động học tập, hoạt động ngoài trời, hoạt động góctrẻ rất hiếu động nên thường tham gia các hoạt động một cách tích cực. Khi trẻ hoạt động tích cực sẽ tiêu hao nhiều năng lượng. Với cơ thể trẻ sẽ lấy năng lượng ở đâu để hoạt động? đương nhiên nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể là thức ăn. Vào buổi sáng thường là trẻ ăn rất ít, do vậy không thể đủ năng lượng cho trẻ đủ hoạt động. Vì vậy, nhất thiết phải có bữa ăn trưa để bù đắp phần năng lượng bị tiêu hao trong các hoạt động từ sáng đến trưa và cung cấp năng lượng cho trẻ tham gia vào các hoạt động buổi chiều. Nếu như trẻ không có bữa ăn trưa hay có ăn nhưng không hợp lý thì cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ.
 	Xây dựng thực đơn phù hợp theo mùa, đảm bảo chất dinh dưỡng để chế biến món ăn cho trẻ. 
Nhà trường đã ký hợp đồng cung cấp thực phẩm đảm bảo, như gạo và các loại rau, thịt, trứng, cá tôm. Hợp đồng đã được quy định chặt chẽ, quy trách nhiệm rõ ràng cho bên nhận và bên cung cấp thực phẩm, có xác nhận của ủy ban nhân dân. Bố trí bảng biểu, đồ dùng, dụng cụ nhà bếp gọn gàng, ngăn nắp có khoa học và thường xuyên vệ sinh sạch sẽ.
Nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh và các ban ngành, đoàn thể địa phương để nâng cao mức ăn cho trẻ.
Nhà trường thực hiện tốt hoạt động vệ sinh cá nhân cho cô và trẻ, chú trọng công tác vệ sinh môi trường và dụng cụ hấp, sấy bát thìa cho trẻ.
Để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng, chăm sóc trẻ được tốt hơn, theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng thì sự ăn uống có sự ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ thì da dẻ hồng hào, cân nặng đảm bảo; sự ăn uống không đồng đều, điều độ sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hóa của trẻ, nếu cho trẻ ăn uống không khoa học, không có giờ giấc thì sẽ thường xảy ra rối loạn tiêu hóa và trẻ có thể mắc một số bệnh như: tiêu chảy, còi xương, khô mắt do thiếu Vitamin A.
 Vậy vấn đề ăn uống đối với trẻ mầm non đã được quan tâm từ rất sơm, đồng thời để có cơ thể phát triển tốt, tránh được bệnh tật thì cần phải đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học, hợp lí và vệ sinh.
 Chính vì lẽ đó nên bản thân tôi tìm ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng bữa ăn và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non thực hiện như sau:
1/ Biện pháp 1: Cân đối thực phẩm, xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Với tinh thần trách nhiệm cao, tổ nuôi chúng tôi thường phân công lên lớp để theo dõi các bữa ăn của các cháu. Qua các buổi dự giờ ăn trên các nhóm lớp, tôi xem thức ăn có hợp khẩu vị với trẻ không để có biện pháp thay đổi cách chế biến cũng như thực đơn sao cho phù hợp. Tham mưu với Ban giám hiệu, kế toán, tổ nuôi để cân đối thực phẩm, xây dựng thực đơn theo ngày, đảm bảo cân đối về dinh dưỡng phải đủ chất,đủ lượng: Cân đối giữa thức ăn động vật và thực vật, đầy đủ 4 nhóm thực phẩm. Ngoài ra, nhà trường đã thực hiện việc tính tỷ lệ Canxi và B1 vào trong khẩu phần ăn của trẻ, tỷ lệ Canxi là: 420mg/ngày/1trẻ, tỷ lệ B1: 0,52mg/ngày/1trẻ giúp cho xương của trẻ phát triển nhanh và mạnh ở lứa tuổi mầm non
1.1. Cân đối thực phẩm:
Một khẩu phần ăn cân đối và hợp lý cần :
- Đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng theo nhu cầu cơ thể.
- Đảm bảo cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu cơ thể.
- Các chất dinh dưỡng phải theo tỷ lệ cân đối và thích hợp.
+ Cân đối giữa các chất dinh dưỡng: protêin, lipit, gluxit, vitamin, chất khoáng (can xi và phốt pho).
+ Cân đối giữa thức ăn nguồn gốc động vật và thực vật.
Nắm được các vấn đề trên, tôi luôn áp dụng để xây dựng thực đơn nhằm đảm bảo thực đơn cân đối và hợp lí. Xây dựng thực đơn hợp lý cho trẻ, thay đổi theo mùa, cân đối về dinh dưỡng. Nghĩa là đủ chất, đủ lượng, cân đối giữa thức ăn thực vật và động vật, đầy đủ 4 nhóm thực phẩm sau:
-Nhóm cung cấp chất đạm như: Thịt, cá, tôm, cua, các loại đỗ hạt, đậu tương giúp xây dựng cơ bắp kháng thể đặc biệt là sự phát triển của các tế bào.
Hình ảnh nhóm cung cấp chất đạm
-Nhóm cung cấp chất béo (lipít) như: Dầu, mỡ, lạc, vừng, nhóm vừa năng lượng cao, vừa làm cảm giác ngon miệng giúp trẻ hấp thụ sử dụng tốt các vitamin trong chất béo như: vitamin A,D,E,K.
Hình ảnh nhóm cung cấp chất béo
- Nhóm chất bột đường (gluxit) như: Bột, cháo, cơm, mì, búnnhóm cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể và cơ bắp.
Hình ảnh nhóm cung cấp chất đường
-Nhóm cung cấp vitamin và khoáng chất như: Rau, củ quả đặc biệt các loại rau có màu xanh thẩm như rau ngót, rau muống, rau dền, rau cải, rau mồng tơi	
Hình ảnh nhóm cung cấp vitamin và khoáng chất
Các loại quả có màu đỏ hoặc vàng như chuối, đu đủ, xoài, cam, cà chua, gấc..nhóm cung cấp các loại vi dưỡng chất đóng vai trò là chất xúc tác giữa các thành phần hoá học trong cơ thể.
Hình ảnh các loại quả
1.2. Xây dựng thực đơn:
	Trong quá trình làm nhân viên nuôi dưỡng tại trường mầm non, bản thân tôi cũng đã đúc kết được một số kinh nghiệm để xây dựng thực đơn của trẻ theo mùa sao cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Trong khi xây dựng thực đơn cũng cần phải lưu ý một số điểm sau:
	+ Đối với trẻ ăn chế độ cơm, mỗi bữa chính cần cho trẻ ăn một món thức ăn mặn và một món canh. Khi xây dựng thực đơn có thể chọn thực phẩm chính cho món ăn mặn của 6 bữa chính trong tuần là một trong những thực phẩm sau: Thịt lợn, thịt bò, thịt gà, cá, tôm, cua hoặc lạc vừng Sau đó thêm các thực phẩm khác ví dụ: Thịt xào rau và canh riêu cá, thịt bò hầm với khoai, đậu hạt, rau các loại, rau xào và canh thịt nấu chua, đậu phụ nhồi thịt và canh tôm nấu bí, muối lạc vừng, canh thịt nấu rau, gà om nấm và canh cua nấu rau.
	+ Món ăn cần thay đổi theo mùa thực phẩm và thời tiết. Mùa hè có thể nấu canh chua, riêu cá hoặc riêu cua, phở hoặc mỳ, bánh đa gạo thay cơm Mùa đông nên cho trẻ các món nóng và nhiều năng lượng để chống rét như súp thịt rau, muối lạc vừng, rau xào thịt, trứng đúc thịt món canh nên ít nước hơn mùa hè. Một tuần có thể cho trẻ ăn từ 1-2 bữa bún, phở, súp thịt rau Món bún, phở năng lượng thấp nên chóng đói, vì vậy bữa chiều nên bổ sung các món xôi cho đủ năng lượng.
	+ Bữa phụ có thể tùy theo mùa có thể là: cháo cá hoặc thịt, mỳ hoặc bánh đa gạo nấu cua, bánh mỳ với súp thịt rau, chè đậu đường, quả chín, sữa đậu nành  Dù là bữa phụ cũng phải đảm bảo chất lượng ( chiếm 10-15% năng lượng khẩu phần cả ngày) không nên cho trẻ ăn bữa phụ bằng 1 hoặc 2 cái kẹo hoặc vài quả táo, vài cái bánh quy nhỏ.
Dưới đây là bảng thực đơn, mà bản thân tôi đã phối hợp cùng Hiệu phó nuôi, kế toán và các thành viên trong tổ nuôi xây dựng và đang thực hiện tại trường :
THỰC ĐƠN CỦA BÉ
 TUẦN II + IV : MÙA ĐÔNG
NĂM HỌC 2017-2018
THỨ
BỮA CHÍNH (TRƯA)
BỮA CHÍNH (CHIỀU) 
NHÀ TRẺ
BỮA PHỤ
 MẪU GIÁO
 2
- Cá tươi xốt thịt cà chua 
 Canh chua giá đỗ 
Phở gà rau thơm
 Sữa bột
Phở gà rau thơm
 Sữa bột
3
- Thịt bò, lợn hầm củ quả
-Canh rau thập cẩm nấu cua
Bún mọc rau thơm
Sữa bột
Bún mọc rau thơm
Sữa bột
 4
 Trứng thịt đảo bông
 Canh bắp cải nấu thịt 
Thịt xốt đậu
Canh khoai tây nấu
Sữa bột
Xôi gấc
 Sữa bột
 5
Thịt gà thịt lợn hầm hạt sen
Canh bí xanh nấu tôm nõn
Cháo thịt bò rau thơm
Sữa bột
 Cháo thịt bò rau thơm
Sữa bột
6
 Tôm tươi xốt thịt 
 Canh khoai tây nấu thịt 
 Thịt dim,canh rau cải
Sữa bột
 Mỳ ngan rau cải
 Sữa bột
 7
 -Thịt kho nước cốt dừa
 Canh bầu nấu tôm 
 Bánh dinh dưỡng
 Sữa bột
 Bánh dinh dưỡng
 Sữa bột
THỰC ĐƠN CỦA BÉ
TUẦN I + III: MÙA ĐÔNG
NĂM HỌC 2017-2018
THỨ
 BỮA CHÍNH (TRƯA)	
BỮA CHÍNH (CHIỀU)
NHÀ TRẺ
BỮA PHỤ 
MẪU GIÁO
2
Thịt gà, thịt lợn om nấm 
Canh bí xanh nấu tôm nõn
Mỳ bò rau thơm
 Sữa bột
Mỳ bò rau thơm
 Sữa bột
3
 Tôm tươi xốt thịt cà chua
Canh củ quả nấu thịt
Thịt xốt đậu
Canh chua giá đỗ
 Sữa bột
 Súp gà ngô non
 Sữa bột
4
Thịt bò lợn hầm ngũ sắc
 Canh rau thập cẩm nấu 
Bún mọc rau thơm
Sữa bột
Bún mọc rau thơm
Sữa bột 
5
Cá ba sa xốt thịt cà chua
- Canh rau cải nấu lạc
Thịt gà xốt,Canh đậu nấu
Sữa bột
Phở gà rau thơm
Sữa bột
6
Thịt xốt đậu
Canh bầu nấu ngao
Cháo ngan rau thơm
Sữa bột
Cháo ngan rau thơm
 Sữa bột
7
Trứng thịt xốt nấm 
Canh bắp cải nấu thịt
Bánh dinh dưỡng
 Sữa bột
Bánh dinh dưỡng
 Sữa bột
2/ Biện pháp 2: Phối hợp chọn địa điểm mua thực phẩm
	Để làm tốt công tác nâng cao chất lượng bữa ăn và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. Vào đầu tháng 9, tại buổi họp ban lãnh đạo nhà trường và các ban ngành đoàn thể thống nhất chế độ ăn uống, tôi đã tham mưu với nhà trường để lựa chọn các cơ sở uy tín để hợp đồng các loại thực phẩm có nguồn gốc rõ ràng, đủ tư cách pháp nhân. Yêu cầu thực phẩm phải tươi ngon, giá cả thấp hơn giá thị trường từ một tới hai giá và khi giá thực phẩm lên xuống phải báo trước với ban giám hiệu từ 5- 7 ngày để nhà trường điều chỉnh và kiểm tra lại giá cả thị trường, sau đó mới quyết định giá cả tăng hay giảm rồi có phương án bổ sung lượng thực phẩm đảm bảo cân đối giữa các chất trong ngày.
	Tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất sứ và đã hết hạn sử dụng vì các loại thực phẩm đó vừa không đảm bảo chất dinh dưỡng, vừa không đảm bảo hợp vệ sinh toàn cho trẻ.
	Ví dụ: Khi hợp đồng với thực phẩm như gạo: Gạo là mặt hàng chủ yếu hàng ngày không thể thiếu được khi tổ chức bữa ăn cho trẻ, nên khi ký hợp đồng gạo, tôi cũng đưa ra các yêu cầu như gạo phải ngon, không có mùi mốc, ẩm ẩm, hạt gạo phải trong không có màu đục, không được lẫn tạp chất, gạo khô cắn giòn, hạt gạo nhỏ đều không bị gãy.
Khi ký hợp đồng thực phẩm nhà trường đã chọn công ty thự

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_b.doc