Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập đọc Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập đọc Lớp 3

- Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng kiển soát cảm xúc, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin

- Việc dạy cho học sinh nắm được cách đọc đúng, nắm được nội dung câu chuyện hay bài thơ có hiệu quả trong phân môn Tập đọc lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn.

- Để việc dạy học đạt hiệu quả, ngay từ lúc đầu, tôi đã khảo sát và theo dõi việc đọc bài của các em, nhưng chất lượng không cao. Từ đó, tôi lên kế hoạch phânh hóa ngay với các em hoàn thành và chưa hoàn thành nhằm nắm rõ năng lực học tập của các em để dễ rèn luyện.

 

docx 15 trang Trần Đại 28/04/2023 8327
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập đọc Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU
TRƯỜNG TH B LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 Long An, ngày 02 tháng 01 năm 2019
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh
học tốt môn Tập đọc lớp 3
I. Sơ lược lý lịch tác giả:	
- Họ và tên: Phạm Thị Mừng Nam, nữ: Nữ
- Ngày tháng năm sinh: 19/5/1993
- Nơi thường trú: Tổ 1 - ấp Tân Hậu A1 – Tân An - Tân Châu - An Giang
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An 
- Chức vụ hiện nay: Chủ nhiệm lớp 3B
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Tiểu học
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên Tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
* Đặc điểm tình hìnhchung
- Trường Tiểu học B Long An nằm trên địa bàn xã Long An diện tích trường khá rộng lớp học được mở rộng thu hút nhiều học sinh trên địa bàn và một bộ phận nhỏ học sinh trái địa bàn. Năm 2016-2017 xã được công nhận là xã nông thôn mới và như vậy trường cũng được công nhận là trường Chuẩn Quốc Gia. Tạo điều kiện cho sư quan tâm giúp đỡ chính quyền địa phương, còn được sự ủng hộ nhiệt của quý cha mẹ học sinh. 
a) Thuận lợi: 
- Được sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Phòng Giáo dục để giáo viên được bồi dưỡng  trình độ chuyên môn nghiệp vụ,  đều đạt chuẩn và trên chuẩn , được dự học tập, bồi dưỡng chuyên môn phục vụ cho việc giảng dạy .
- Thực hiện giảng dạy phân môn Tập đọc theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành .
- Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tương đối đầy đủ để phục vụ việc dạy- học
- Giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, luôn quan tâm đến học sinh.
- Sự nhận thức trong phụ huynh có thay đổi nên bước đầu đã có sự  quan tâm và đầu tư cho việc học của con em.
- Đa số các em nhà gần trường nên tạo điều kiện cho các em tỉ lệ đi học đều khá cao.
- Mỗi học sinh đều có sách giáo khoa nên có điều kiện luyện đọc ở nhà.
- Học phân môn Tập đọc lớp 3 trên cơ sở kế thừa phân môn Tập đọc lớp 2 nên học sinh quen cách học.
c) Khó khăn:	
- Phần lớn học sinh là con của nông dân nên việc quan tâm của cha mẹ còn hạn chế nên việc học của học sinh hoàn toàn dựa vào giáo viên là nhiều. Nên việc học ở nhà các em ít tự học.
- Giáo viên còn nhiều lúng túng trong việc dạy học theo đối tượng học sinh nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Trình độ của học sinh không đồng đều, học sinh chưa tự giác tự học ở nhà, đọc bài còn chậm , nhiều em mức độ chú ý trong giờ học chưa cao.
- Một số lớp sĩ số học sinh đông, nên học sinh ít có cơ hội được rèn đọc so với lớp có sĩ số ít học sinh.
- Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập đọc lớp 3 
- Lĩnh vực: Chuyên môn
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến.
- Trong quá trình nhận lớp thì thực tế học sinh lớp tôi còn một số em đọc bài còn lúng túng, đọc chữ còn đánh vần chưa đạt yêu cầu khi đọc bài. Các em rất sợ học phân môn này. Mà môn tập đọc vừa giúp các em trao dồi ngôn ngữ khi giao tiếp, môn Tập đọc còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng giúp cho học sinh học tốt các môn học khác; bởi các em có đọc được thì mới nhận thức được, hiểu được nội dung, nắm được kiến thức của bài học; đồng thời thông qua phân môn Tập đọc, sẽ hình thành cho các em nhân cách con người mới phù hợp
- Năm học 2018 – 2019 tôi được phân công dạy lớp 3B. Với 33 học sinh. Do điều kiện hoàn cảnh sống còn khó khăn cha mẹ các em đều làm nông nên việc chỉ dẫn, nhắc nhở các em còn chưa được quan tâm nhiều. Còn hay phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Nên trong giờ học Tiếng Việt đặt biệt là môn Tập đọc thì chất lượng đọc còn chưa cao. Những tuần đầu vào lớp tôi vừa dạy vừa ổn định nề nếp và xem chất lượng học của lớp như thế nào và đi tìm hiểu tình hình học tập của từng em và cùng trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới. Từ đó để có cơ sở nắm rõ học lực của lớp như sau:
 Năm học
Học sinh hoàn thành tốt
HHọc sinh hoàn thành
HHọc sinh chưa Hoàn thành
SSố lượng
TTỉ lệ (%)
SSố lượng
TTỉ lệ(%)
SSố lượng
TTỉ lệ(%)
22017-2018
G 9
29,03%
 10
32,26%
 11
36,67%
22018-2019
 8
4,24%
 13
9,39%
 l2
6,36%
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
- Như chúng ta đã biết thì dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( Đọc, viết, nghe, nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
- Khi học sinh đọc tốt thì các em mới có thể chiếm lĩnh được kiến thức môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học  cấp tiểu học nói chung một cách chắc chắn, làm cơ sở để các em học cấp học kế tiếp.
- Bên cạnh đó, phân môn Tập đọc còn giúp cho học sinh không chỉ đọc đúng mà còn hiểu đúng nội dung từng bài đọc, thích đọc. Từ đó học sinh trau dồi được vốn ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập. Học sinh đọc tốt sẽ giúp các em hiểu biết rộng hơn, sâu hơn, suy nghĩ một cách lôgic hơn, các em dễ dàng tiếp thu được cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt, hướng tới các em lòng yêu cái thiện, góp phần hình thành nhân cách học sinh.
- Tiếng Việt là một môn khoa học xã hội cơ bản nó liên quan đến các môn học khác và hoạt động giao tiếp trong cuộc sống. Học phân môn Tập đọc là để đọc thông, viết thạo đối với các em học sinh tiểu học, vì vậy phân môn Tập đọc góp phần cho việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Như vậy, trọng tâm của phân môn Tập đọc cấp tiểu học là vấn đề rèn đọc. Việc rèn đọc cho học sinh có vị trí vô cùng quan trọng, là vấn đề cấp thiết đòi hỏi mỗi giáo viên cần xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo việc rèn đọc trong quy trình một tiết tập đọc nhằm mang lại hiệu quả cao.
* Nguyên nhân dẫn đến học sinh không thực hiện tốt môn Tập đọc 
- Vẫn còn một số học sinh chưa thực sự ham thích phân môn Tập đọc dưới sự quản lí của giáo viên.
- Một số ít cha mẹ học sinh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình. Vì thế dẫn đến các em đọc còn yếu, thiếu sự tự tin khi tham gia giờ học tập đọc.
- Học sinh ít được luyện đọc nhiều loại sách khác nhau khi ở nhà kể cả đi học nên đọc còn hạn chế. 
Từ những nguyên nhân trên là một giáo viên tôi cũng băn khoăn làm thế nào để các em có thể đạt được mục tiêu đề ra. Tôi cố gắng tìm ra phương pháp dạy phù hợp với các đối tượng để đạt hiệu quả cao nhất. Đó cũng là lý do để tôi chọn nội dung sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập đọc lớp 3”.
3. Nội dung sáng kiến
3.1. Tiến trình thực hiện
Chương trình Tập đọc lớp 3 được gắn với 15 chủ điểm: Măng non; Mái ấm; Tới trường; Cộng đồng; Quê hương; Bắc trung nam; Anh em một nhà; Thành thị và nông thôn; bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo; Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung; Bầu trời và mặt đất. Học trong 35 tuần, hai tuần học một chủ điểm (4 bài tập đọc), riêng chủ điểm “Ngôi nhà chung ” học trong 3 tuần (6 bài tập đọc).
* Chuẩn cần đạt:
- Đọc rành mạch, trôi chảy, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí và bước đầu đọc phân biệt lời người dẫn chuyện với lời nhân vật.
- Hiểu nội dung bài đọc.
* Các kĩ năng sống cần giáo dục học sinh qua các bài Tập đọc lớp 3:
- Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng kiển soát cảm xúc, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
- Việc dạy cho học sinh nắm được cách đọc đúng, nắm được nội dung câu chuyện hay bài thơ có hiệu quả trong phân môn Tập đọc lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. 
- Để việc dạy học đạt hiệu quả, ngay từ lúc đầu, tôi đã khảo sát và theo dõi việc đọc bài của các em, nhưng chất lượng không cao. Từ đó, tôi lên kế hoạch phânh hóa ngay với các em hoàn thành và chưa hoàn thành nhằm nắm rõ năng lực học tập của các em để dễ rèn luyện. 
- Lớp tôi có các em như sau: Nghĩa, Ly, Nam, Phước, Ngân, Ngà, Vy,Thiện, Linh, Quỳnh. Là những em viết đọc còn yếu. Các em hay sợ đến tiết tập đọc. Các em đọc chưa rõ, đánh vần còn nhiều, phát âm còn sai hay nhầm lẫn các dấu thanh. Thấy vậy tôi luôn động viên khuyến khích các em để các em chăm học, tích cực đọc bài.
- Tôi cũng tìm hiểu cách đọc của các em qua giờ viết chính tả, độ viết sai lỗi là bao nhiêu của các em. Khi đó kịp thời khắp phục những lỗi sai của các em cũng tạo tiền đề cho các em sau này đọc không còn sai nữa.
3.2. Thời gian thực hiện:
- Thì chúng ta đã biết, trong chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt, đặt biệt là môn Tập đọc xuất hiện xuyên suốt từ đầu năm cho đến cuối năm học. Phân môn Tập đọc trong Tiếng Việt là một trong những phân môn quan trọng bởi có đọc tốt thì mới học tốt Tiếng Việt. Đọc tốt ở phân môn Tập đọc là các em được củng cố khắc sâu thêm những tri thức, kỹ năng học tốt ở những phân môn khác của Tiếng Việt và các môn học khác. Chức năng của phân môn Tập đọc là luyện đọc: rèn cho học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, tiến tới đọc hay (đọc diễn cảm). Thông qua đọc đúng, đọc hay học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ. Những biện pháp trên đã được tôi áp dụng từ năm 2017 – 2018 cho đến năm học này và nhận được nhiều kết quả khả quan.
3.3. Những biện pháp và quá trình tổ chức:
3.3.1. Xác định tấm quan trọng của phân môn Tập đọc:
Giáo viên cần nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Tiếng việt. Trong đó, Tập đọc là một phân môn “then chốt” như thế nào? Chuẩn kiến thức , kĩ năng cần đạt sau một tiết Tập đọc là những gì? Vận dụng phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học nào phù hợp với từng đối tượng học sinh để bài học đó đạt kết quả cao? Bài tập đọc cần giáo dục những kĩ năng sống gì cho học sinh? Đó là những câu hỏi mà người giáo viên cần trả lời trước khi soạn kế hoạch bài học cho một tiết Tập đọc.
3.3.2. Nắm bắt các quy trình giảng dạy tiết Tập đọc:
Giáo viên cần thực hiện quy trình tiết Tập đọc một cách linh hoạt, sáng tạo. Quy trình cơ bản của tiết Tập đọc lớp 3:
1) Kiểm tra bài cũ: Cho học sinh đọc bài tập đọc, đọc thuộc lòng bài thơ hoặc kể lại nội dung câu chuyện đã học ở tiết trước; giáo viên có thể hỏi thêm nội dung đoạn, bài học sinh vừa đọc để củng cố kĩ năng đọc- hiểu.
2) Bài mới:
a) Giới thiệu bài
b) Luyện đọc:
- Giáo viên đọc mẫu toàn bài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ
+ Hướng dẫn học sinh đọc từng câu:
Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp câu lượt 1, sửa lỗi phát âm của học sinh, cho học sinh luyện đọc một số từ  khó, dễ lẫn do phát âm địa phương).
Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp câu lượt 2, tiếp tục sửa sai cho học sinh (nếu có)
+ Hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn:
GV hoặc học sinh chia đoạn.
Cho học sinh đọc nối tiếp đoạn lần 1.
Hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn: hướng dẫn học sinh đọc câu khó (nếu có), kết hợp giải nghĩa một số từ.
Cho học sinh đọc nối tiếp đoạn lần 2.
+ Học sinh luyện đọc từng đoạn trong nhóm.
+ Kiểm tra việc đọc trong nhóm của một số nhóm.
+ Học sinh đọc đồng thanh ( bài dạng văn xuôi)
c) Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài.
d) Luyện đọc lại : lưu ý giọng đọc đoạn, bài, những câu cần chú ý; tổ chức cho học sinh thi đọc đoạn học sinh thích hoặc cả bài; đọc diễn cảm chưa phải là yêu cầu bắt buộc nên tùy thuộc trình độ học sinh; hướng dẫn học thuộc lòng nếu sách giáo khoa yêu cầu.
3) Củng cố, dặn dò, nhận xét: có thể lưu ý về nội dung bài, về cách đọc và cách học bài ở nhà của học sinh.
3.3.3. Giáo viên cần trau dồi kĩ năng đọc mẫu:
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là kĩ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó, yêu cầu đọc mẫu của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng, rõ ràng, rành mạch, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Muốn vậy thì giáo viên cần đọc đi đọc lại nhiều lần bài tập đọc, tìm hiểu kĩ nội dung cảm thụ sâu sắc nhất, tinh tế nhất của bài văn, bài thơ để tìm được giọng đọc đúng, đọc hay , đồng thời tìm ra câu (đoạn) mà học sinh có thể đọc hay bị vấp,  chứ không đơn thuần tìm ra những từ khó, dễ lẫn. Trước khi đọc mẫu giáo viên cần tạo cho học sinh tâm thế nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát cả lớp không nên đi lại trong khi đọc và thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn. Có như vậy thì bước đọc mẫu của giáo viên mới hấp dẫn được học sinh.
3.3.4. Chú trọng rèn kĩ năng đọc cho từng đối tượng học sinh:
Yêu cầu, đặc trưng của phân môn này đối với các em là: đọc to, rõ ràng, rành mạch. Đầu năm giáo viên gọi từng em lên đọc bài, nắm được những mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để phân nhóm đối tượng học sinh đồng thời ghi vào sổ tay mỗi em một trang theo dõi quá trình học tập của các em qua các đợt kiểm tra. Đối với phân môn Tập đọc thường có các dạng đối tượng sau:
(1) Đọc to, rõ ràng, rành mạch, ngắt nghỉ hơi hợp lí .
(2) Đọc to, rõ ràng nhưng chưa rành mạch.
(3) Đọc nhỏ, “thêm, bớt ” từ, đọc còn ê a, đọc sai từ, đọc không trôi chảy
Đối với dạng đối tượng giáo viên không mất nhiều thời gian để rèn đọc đúng cho các em và cũng không chỉ dừng lại ở yêu cầu đọc đúng mà còn có thể nâng lên yêu cầu bước đầu đọc hay, đọc diễn cảm. Riêng  hai dạng đối tượng còn lại giáo viên cần phải vừa kiên trì, nhẫn nại, không được buông thả trong việc rèn đọc cho các em vừa tạo điều kiện để học sinh được đọc nhiều ở lớp, luôn động viên, khuyến khích, tạo cho các em sự tự tin trong học tập, nhất là trong lúc đọc.
Đối với những học sinh đọc “thêm, bớt “ từ thì yêu cầu các em đọc lại 2 -3 lần câu đó để các em tự phát hiện từ các em đã đọc dư hoặc thiếu. Riêng các em đọc sai từ  cần lưu ý xem do đọc nhầm hay đọc vẹt đồng thời cho các em phân tích, đánh vần lại từ đó để các em sửa nhanh hơn. Thực tế một giờ tập đọc giáo viên rất ngại việc rèn đọc đối với các em đọc ngọng hoặc đớt vì sợ mất thời gian nên dẫn đến tình trạng giáo viên ít gọi các em đọc.
Đối với những học sinh này người giáo viên phải cặn kẽ, tỉ mỉ như những em ngọng âm t, th, a(Ví dụ: “Chúng tôi” thì đọc là “Chúng côi”, “thầm thì ” đọc là “hầm hì”, “Anh ấy” thì đọc là “ăn ấy”.) , hướng dẫn các em nghe và xem giáo viên đọc: chẳng hạn khi đọc âm “a” các em phải mở rộng miệng hơi thoát ra mạnh ta sẽ phát âm đúng Thầy đọc mẫu trò đọc theo, cứ thế  kiên trì dẫn dắt các em sẽ tiến bộ. Việc rèn đọc cho những học sinh này không chỉ trong một số tiết là xong mà có khi phải thực hiện trong cả một học kì hoặc cả năm học
3.3.5. Rèn đọc cho học sinh theo từng dạng bài:
Các bài tập đọc trong sách Tiếng Việt lớp 3 có nhiều dạng bài (dạng văn xuôi, dạng thơ, dạng văn kể chuyện, dạng văn bản hành chính), mỗi dạng có các cách đọc khác nhau. Tùy theo từng dạng bài ta hướng dẫn học sinh cách đọc cho phù hợp.
* Bài dạng văn xuôi:
Trước hết giáo viên cần xác định từ và câu khó, câu dài để hướng dẫn học sinh. Đặc biệt lưu ý từ dễ đọc sai do đặc điểm phương ngữ. Ví dụ: học sinh thường đọc sai tiếng có phụ âm đầu: tr (tre, trên), th (thế, thì), s (sáng), r (rung rinh), v(và); tiếng có kết thúc âm cuối: t ( mặt), n (bàn,chín); tiếng có thanh ngã (bỡ  ngỡ).
Việc đọc từ dễ lẫn giáo viên cần cho học sinh tìm và phát hiện trong khi đọc câu vì có học sinh đọc từ thì đúng nhưng khi vào đọc câu, đọc đoạn thì sai. Việc hướng dẫn luyện đọc theo trình tự đọc câu- đoạn- bài. Bên cạnh việc đọc đúng giáo viên cần chú trọng hướng dẫn các em biết ngắt nghỉ hơi hợp lí vì bài văn xuôi thường có những câu dài.
Khi đọc phải liền từ; ngoài việc ngắt, nghỉ hơi theo dấu câu thì dựa vào nghĩa để ngắt hơi giữa các cụm từ. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ hơi đúng ở câu văn, đoạn văn bằng việc rèn đọc lại câu văn đó, đoạn văn đó. Bên cạnh việc rèn đọc đúng đối bài dạng văn xuôi giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nhấn giọng  những từ chỉ màu sắc, tính chất, âm thanh, những từ chỉ hành động.
Ví dụ: Bài “ Âm thanh thành phố”, giáo viên hướng dẫn học sinh nhấn giọng các từ: say mê, náo nhiệt, tiếng ve, tiếng kéo, tiếng còi tàu, Từ đó cho học sinh thấy giữa khung cảnh náo nhiệt của thành phố vẫn còn có những âm thanh như tiếng đàn, tiếng nhạc làm say mê lòng người, làm cho học sinh thêm yêu quê hương, đất nước.
* Bài dạng thơ:
Tương tự như bài dạng văn xuôi trước tiên giáo viên cho học sinh luyện đọc đúng tiếng từ dễ lẫn, những dòng thơ. Và việc quan trọng không thể thiếu đó là hướng dẫn học sinh biết ngắt nhịp thơ. Việc ngắt nhịp thơ ngoài việc dựa vào thể thơ còn dựa vào nghĩa nên rất khó đối với học sinh. Giáo viên cho nhiều học sinh nêu cách ngắt nhịp theo cảm nhận của học sinh và sau đó giáo viên gợi mở để học sinh phát hiện ra cách ngắt nhịp đúng, có thể cho học sinh kí hiệu vào sách cho học sinh dễ nhớ.
Đồng thời giáo viên giúp học sinh làm quen với cách ngắt nhịp biểu cảm ở chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ dừng không logic ngữ nghĩa. Ví dụ: Bài “bàn tay cô giáo”, hai câu thơ cuối bài cần đọc chậm để thể hiện sự thán phục và nhấn giọng các từ: biết bao, bàn tay cô. Bài “Chú ở bên Bác Hồ” cần đọc với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm.
Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dài ở một số từ (từ gạch chân) và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú:
Chú Nga đi bộ đội/
Sao lâu quá là lâu!//
Nhớ chú,/ Nga thường nhắc://
– Chú bây giờ ở đâu?//
Chú ở đâu, /ở đâu?//
Trường Sơn dài dằng dặc?//
Trường Sa đảo nổi, /chìm?//
Hay Kon Tum,/ Đắc Lắc?//
* Bài dạng văn kể chuyện:
Phần luyện đọc đúng cũng tương tự như hai dạng trên nhưng cần lưu ý đối với dạng văn kể chuyện do nội dung gần gũi, giống như một cuộc trò chuyện nên học sinh dễ thuộc văn bản, từ đó dẫn đến hiện tượng học sinh thêm hoặc bớt từ khi đọc.
Ngoài ra giáo viên cần chú ý đến ngữ điệu đọc, giúp học sinh biết đọc phân biệt lời người dẫn chuyện với lời nhân vật, từng thời điểm giọng đọc có sự thay đổi phù hợp với nội dung câu chuyện, có lúc đọc nhanh, lúc đọc chậm.
Ví dụ: Bài Tập đọc- kể chuyện: “Bài tập làm văn”, giọng nhận vật “ tôi ” đọc với giọng tâm sự nhẹ nhàng, hồn nhiên; giọng “mẹ” đọc dịu dàng. Hoặc bài : “ Trận bóng dưới lòng đường ”, đoạn 1, 2 đọc nhanh và dồn dập (tả trận bóng); đoạn 3,4 đọc chậm lại (hậu quả tai hại của trò chơi không đúng chỗ).
Việc đọc diễn cảm tuy chưa là yêu cầu bắt buộc đối với học sinh lớp ba nhưng đối với dạng bài kể chuyện thì bước đầu  giáo viên cần giúp cho học sinh biết đọc phân biệt lời nhân vật và thay đổi giọng đọc trong đoạn, bài để giúp học sinh kể chuyện tốt.
* Bài dạng văn bản hành chính:
Tùy vào từng thể loại mà giáo viên hướng dẫn học sinh luyện đọc. Nhưng việc trước tiên vẫn là luyện đọc đúng; tiếp đến là xác định giọng đọc cho phù hợp thể loại văn bản. 
Ví dụ: Bà

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.docx