Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả

- Giáo viên có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học đạt chuẩn theo qui định của ngành. Mỗi thầy cô có tâm với nghề, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và thường xuyên đổi mới phương pháp giàng dạy biết phân hóa đối tượng học sinh. Tự chủ thay đổi nội dung phù hợp với trình độ của học sinh, nhưng phải thông qua tổ chuyên môn bàn bạc và thống nhất. Chấp hành tốt giờ giấc theo qui định, luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm có mối đoàn kết nội bộ tốt. Gần gũi thân thiện với học sinh, phối hợp với cha mẹ các em được ủng hộ về xã hội hóa tốt và việc giáo dục các em có tiến bộ. Sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự nhiệt tình của Ban giám hiệu nhiệt hỗ trợ trên lĩnh vực chuyên môn. Từ đó tay nghề của giáo viên từng bước được nâng lên.

- Học sinh: đa số các em đi học đúng giờ và chấp hành nội quy của nhà trưởng.

- Cha, me có quan tâm đến việc học của các em. Mua sắm dụng cụ học tập khá đầy đủ, trường học khang trang có sân chơi thoáng mát cho các em vui chơi cơ sở phòng học đủ ánh sang , có thư viện đạt chuẩn để các em đọc sách

 

doc 12 trang Trần Đại 28/04/2023 5533
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU
TRƯỜNG TH B LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Long An, ngày 14 tháng 01 năm2018
BÁO CÁO 
Kết quả thực hiện sáng kiến
Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả
----------------------------
I. Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Lý Văn Lon 	 Nam, nữ: Nam
- Ngày tháng năm sinh: 10/ 10/ 1967
- Nơi thường trú: Tổ 14, ấp Long Hòa, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên 
- Trình độ chuyên môn: Đại học 
- Lĩnh vực công tác: Chuyên môn
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: 
- Trường Tiểu học B Long An nằm trên trục lộ giao thông xã nông thôn mới giữa xã Long An và xã Châu Phong, trực thuộc ấp Long Hòa và ấp B2 rất thuận lợi cho việc đi học của các em học sinh 
1. Thuận lợi:
- Giáo viên có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học đạt chuẩn theo qui định của ngành. Mỗi thầy cô có tâm với nghề, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và thường xuyên đổi mới phương pháp giàng dạy biết phân hóa đối tượng học sinh. Tự chủ thay đổi nội dung phù hợp với trình độ của học sinh, nhưng phải thông qua tổ chuyên môn bàn bạc và thống nhất. Chấp hành tốt giờ giấc theo qui định, luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm có mối đoàn kết nội bộ tốt. Gần gũi thân thiện với học sinh, phối hợp với cha mẹ các em được ủng hộ về xã hội hóa tốt và việc giáo dục các em có tiến bộ. Sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự nhiệt tình của Ban giám hiệu nhiệt hỗ trợ trên lĩnh vực chuyên môn. Từ đó tay nghề của giáo viên từng bước được nâng lên.
- Học sinh: đa số các em đi học đúng giờ và chấp hành nội quy của nhà trưởng.
- Cha, me có quan tâm đến việc học của các em. Mua sắm dụng cụ học tập khá đầy đủ, trường học khang trang có sân chơi thoáng mát cho các em vui chơi cơ sở phòng học đủ ánh sang , có thư viện đạt chuẩn để các em đọc sách 
2. Khó khăn:
- Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con mình ảnh hưởng đến việc học tập. Trình độ chuyên môn không đồng đều, ít chú tâm đến học sinh chưa hoàn thành, nên chất lượng học tập chưa cao
- Đối với những em chưa hoàn thành thường nghỉ học ít chú ý theo dõi bài và cùng bạn thảo luận. Tiếp thu bài chậm, không dám phát biểu, không chuẩn bị bài, thường xuyên không thuộc bài, ít đọc sách nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc học. Bản thân những phụ huynh này khi mời họp thì không đi.
- Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả
- Lĩnh vực: Chuyên môn 
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 
* Kết quả thống kê lỗi:
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
a. Về thanh điệu:
- Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ: 	Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành
b. Về âm đầu:
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ c/k: Céo cờ
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh
+ s/x: Cây xả , xa mạc
+ v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ
- Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả
c. Về âm chính:
- Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học
+ ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ
+ iu/êu/iêu: chìu chuộng, lim khiết, cây niu
+ oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp
+ ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm
+ im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm
+ ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp
+ ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới
+ ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác
+ um/uôm: nhụm áo, ao chum
+ ưi /ươi: trái bửi
+ ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu
d. Về âm cuối: 
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc
+ at/ac: lang bạc, lường gạc, rẻ mạc
+ ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin
+ ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển
+êt/êch: trắng bệt
+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc
+ ut/uc: chim cúc, bão lục
+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm
+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc
+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn
- Tất cả các lỗi sai ở giai đoạn khảo sát đầu năm học 2016-2017 của lớp tôi được thống kê ở bảng số liệu sau: Tổng số học sinh là 27 học sinh
Âm đầu
Âm cuối
Dấu thanh
Âm chính
Âm đệm
6 học sinh
chiếm 27,27%
8 học sinh chiếm 36,36%
7 học sinh chiếm 31,18%
6 học sinh chiếm 27,27%
0%
* Nguyên nhân mắc lỗi:
a. Về thanh điệu:
- Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu câu rất phổ biến. Theo thống kê, Tiếng Việt có khoảng 1900 từ mang thanh hỏi , 900 từ mang thanh ngã , tổng cộng có khoảng 2800 từ . Do đó có sự nhầm lẫn qua lại giữa hai thanh này rất nhiều
b. Về âm đầu:
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c,k,qu) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất là học sinh chưa hoàn thành) thì rất dễ lẫn lộn.
c. Về âm chính:
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi /ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên 
- tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: huệ, hoa).
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ đối với các âm chính trong hầu hết các vần trên
d. Về âm cuối:
Người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối /i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía Nam
* Ngoài ra còn các nguyên nhân khác như:
a. Về học sinh:
- Học sinh thiếu tập trung, thiếu tính cẩn thận.
- Do các em học chưa tốt phân môn tập đọc, từ đó dẫn đến học sinh phát âm sai. Nếu các em phát âm không đúng thì khi viết các em viết dễ sai.
- Do các em ảnh hưởng của từ địa phương ( nói như thế nào thì viết như thế ấy) 
Ví dụ: Từ “ tôi” – viết “ tui” hoặc từ “ về quê” – viết “ dìa quê” 
- Học sinh chưa nắm rõ nghĩa của từ nên dễ lẫn lộn các cặp từ gần giống nhau
b. Về giáo viên :
- Chưa quan tâm nhiều đến học sinh chưa hoàn thành.
- Chưa tạo sự hướng thú học tập cho học sinh.
- Giáo viên phát âm chưa chuẩn, chữ viết chưa đẹp.
c. Về gia đình:	
- Chưa quan tâm nhiều đến việc học của các em
- Chưa nhắc nhở các em học tập.
- Thiếu kiểm tra tập vở của con em mình
- Chương trình dạy học Tiểu học hiện nay là mang tính kế thừa những thành tựu, khắc phục những tồn tại của chương trình trước đây, ngoài đổi mới về nội dung dạy học, chương trình tiểu học hiện nay còn đổi mới về phương pháp dạy học và tăng cường tới lực lượng học tập nhằm khuyến khích Chúng ta có thể nhìn lại và có một số nhận xét qua thực tế giảng dạy giáo viên đều cho rằng: Đây là một phân môn cần thiết thể hiện nét chữ nết người. Việc dạy chính tả hiện nay được thực hiện một cách có hệ thống các bài tập ở sách giáo khoa. Giáo viên hướng dẫn học sinh học chính tả qua các bài viết (nghe viết, nhớ viết). Qua làm các bài tập chính tả, qua các bài chính tả rèn kỹ năng viết đúng, viết đẹp. Tăng cường kỹ năng viết các văn bản học sinh có ý thức hơn khi viết văn bản trong thực tiễn. Phân môn chính tả đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh kỹ năng viết chữ. Nhưng do phân môn Chính tả là một phân môn đòi hỏi kỹ năng rèn chữ, viết đúng, viết đẹp cho học sinh. Vì vậy giáo viên còn có những giải pháp trong việc tổ chức một tiết học sao cho đúng yêu cầu và đạt hiệu quả cao. Dưới cái nhìn của giáo viên, phân môn này đòi hỏi một lượng thời gian nhất định, một số giáo viên chưa coi trọng việc rèn chữ cho học sinh mới chỉ dừng lại ở góc độ đọc, viết nhận xét chưa thật sự sát sao với học sinh, giáo viên có tâm lý ngại nhận xét chữa chính tả cho học sinh. Hơn nữa học sinh viết bài chính tả không có để ý đến việc rèn chữ, viết đúng các nét, độ cao trong một con chữ, khoảng cách giữa các chữ, tiếng, chủ yếu viết cho xong bài. Tình hình này đã ít nhiều ảnh hưởng đến chữ viết của học sinh trong lớp học hiện nay của lớp mình đảm nhiệm. Trước thực trạng ấy, bản thân tôi có một số giải pháp của mình để cùng thực hiện chương trình vở sạch chữ đẹp ở tiểu học hiện nay, nhất là đối với các em học sinh ở khối lớp 4. Đó là lý do khiến tôi tìm hiểu và nghiên cứu sáng kiến này.	
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
- Môn Tiếng việt có vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của con người Việt Nam. Tiếng việt có vai trò càng quan trọng hằng ngày khi trẻ mới sinh ra, trẻ được nghe tiếng nói giao tiếp hằng ngày, hằng giờ khi cất tiếng nói đầu tiên, trẻ cũng nói lên tiếng nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng việt một cách khoa học và cẩn thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời.
- Tiếng Việt là một môn học quan trọng trong trường tiểu học. Trong đó phân môn tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập làm văn là dạy cho các em hình thành kỷ năng nói, viết, được xây dựng trên những thành tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, môn luyện từ và câu, kể chuyện  tập làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động kiến thức nhiều mặt từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh.
- Để thực hiện và duy trì đạt chất lượng học tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học; tỉ lệ học sinh lên lớp, học sinh hoàn thành chương trình lớp học cần phải được nâng lên về số lượng và chất, phải chú trọng đặt nền móng ngay từ đầu năm học để tạo cho các em thói quen học tập tốt, trong đó rèn kĩ năng “ viết tốt” cũng rất cần thiết. Đó là kĩ năng đặt ở vị trí thứ hai trong sự hình thành và rèn luyện 4 kĩ năng: “Đọc, nói,viết, nghe,” trong phân môn Tiếng việt hiện hành.
- Cần phải viết đúng, chữ viết rõ ràng, đúng mẫu và đẹp
- Những yêu cầu trên đã làm tôi rất lo lắng, vì nếu dạy học theo phương pháp lấy học sinh làm trung tâm mà không hình thành được cho các em có thói quen theo phương pháp học tập chủ động, tích cực thì việc cố gắng giảng dạy của giáo viên xem như vô nghĩa, kết quả sẽ chưa đạt yêu cầu. 
- Chữ viết hiện nay của người Việt Nam là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc viết đúng phải đọc đúng để viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những qui tắc, qui ước Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. 
Ví dụ: Các tỉnh Miền Nam thì “về” thành ra “dề” hay “rồi” thành ra “gồi”..., đặc biệt vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn có phát âm như ngọng “Con cá rô bỏ vô rổ” thành “ Con cá gô bỏ dô gổ”hoặc “bông hoa” thì nói “bông qua”...Gần gũi với việc phát âm cũng có vài phương ngữ như: “làm rồi” thành “làm dồi”, “đàng hoàng” thành “đàng quàng”... Nhưng “vùng nào hiểu theo vùng nấy” nên thật ra trong từng địa phương có kiểu phát âm như vậy đã thành “quen tai” nên không có gì đáng nói. Có điều là hiện nay sự sống chung pha trộn trong các vùng cả nước hiện nay là khá phổ biến nên khó khăn trong việc “nghe viết” sao cho đúng là một vấn đề lớn đối với Chính tả Việt Nam là rất rõ nét.
Sau nhiều lần chỉnh lí, có thể nói chương trình Sách giáo khoa Tiểu học cũng như riêng phân môn Chính tả ở lớp 4 là rất hay. Tuy vậy vẫn có sự chênh lệch nhau quá lớn về chất lượng dạy học Đa số giáo viên dạy phân môn Chính tả là căn cứ vào quy trình hướng dẫn trong Sách giáo viên. Bản thân tôi cho rằng dạy học theo như hướng dẫn của Sách giáo viên là cần thiết nhưng nếu giáo viên vận dụng không linh hoạt thì giờ học dẫn đến giờ học trở nên đơn điệu, thiếu sự sáng tạo. Chính những lí do như vậy nên họ dạy không hấp dẫn, học sinh cũng không hứng thú học tập.Vấn đề đặt ra là dạy theo quy trình nhưng phải có sự linh hoạt, sáng tạo khi vận dụng từ đó tôi đưa ra Một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả.
3. Nội dung sáng kiến 
3.1. Tiến trình thực hiện
- Đầu năm tôi khảo sát để nắm tình hình của lớp và đưa ra các giải pháp cụ thể và thực nghiệm một số biện pháp nêu trên tôi thấy kết quả chuyển biến rõ rệt, nhiều em trước đây viết chữ còn xấu, nét chữ rời rạc, sai chính tả nay đã viết đúng cỡ chữ nối nét đúng quy định, các nét chữ đúng quy định, đúng độ cao, đúng chính tả. 
- Tôi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm cho thấy các em biết giữ gìn sách vở sach sẽ , biết bao bìa dán nhãn việc rèn chữ viết cho các em có sự tiến bộ rõ rệt. Từ đó “ Rèn luyện kỹ năng viết” mà chất lượng giáo dục được nâng cao. Tuy vậy việc rèn luyện kỹ năng viết cho các em không phải một sớm một chiều thực hiện ngay được mà đòi hỏi mỗi giáo viên phải suy nghĩ, tìm tòi và áp dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, mềm dẻo, bền bỉ thì kết quả mới được nâng cao. Bản thân tôi không ngừng học hỏi đồng nghiệp và trao dồi kiến thức kĩ năng sư phạm và đổi mới phương pháp để thực hiện lớp mình đang chủ nhiệm
- Tôi còn tích lũy những bài mẫu viết đẹp đúng để các em xem tham khảo. Tôi còn hướng dẫn cách trình bày và phát đúng. Nhằm giúp các em biết phân tích từ âm,vần chính xác. Nhằm hạn chế những sai sót ở mức độ thấp nhất. Nhờ sự hỗ trợ của các bạn ngồi nhóm chia sẻ giúp đỡ uốn nắn cách phát âm và rèn chữ viết 
3.2. Thời gian thực hiện:
- Thời gian thực hiện đề tài này từ năm học: 2016-2017
3.3. Biện pháp tổ chức:
Trong tình hình hiện nay học sinh còn viết sai chính tả khá nhiều. Vì vậy người giáo viên cần phải làm gì để khắc phục được tình trạng học sinh viết sai chính tả. Muốn viết đúng chính tả không những từ phía giáo viên mà còn tuỳ thuộc ở bản thân học sinh có cố gắng hay không? và cả về phía gia đình học sinh có quan tâm đến việc học của các em hay không? Qua đó thấy được để giúp học sinh học tốt môn học này chúng ta cần thực hiện các biện pháp sau:
3.3.1. Tích cực luyện phát âm đúng:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ, chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
* Đối với học sinh đọc sai phụ âm tr/ch
+ Âm đầu ch: Đưa đầu lưỡi lên hàm bật hơi nhẹ. Ví dụ: chúng ta.
+ Âm đầu tr: Đưa gốc lưỡi lên hàm bật hơi nhẹ. Ví dụ: trúng đích
* Đối với học sinh đọc sai phụ âm đầu d/gi/r.
+ Âm đầu d: Đưa gốc lưỡi lên hàm bật nhẹ. Ví dụ: dòng sông
+ Âm đầu gi: Đặt đầu lưỡi lên răng bật nhẹ. Ví dụ: giản dị.
+ Âm đầu r: Đưa gốc lưỡi lên hàm bật hơi nhẹ. Ví dụ: rong rêu
3.3.2. Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:
Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, tìm hiểu nghĩa phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “bàng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “bàn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này
- bàng = b + ang + thanh huyền	
- bàn = b + an + thanh huyền.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “bàng” có âm cuối là “ng”, tiếng “bàn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
3.3.3. Phân biệt bằng nghĩa từ: 
- Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câunhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo tiếng.
- Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn):
 Bàn = cái bàn 
 bàng = cây bàng
 hoặc phân biệt Bác và bát:
 bác = anh của ba (Bác Ba)
 bát = đồ dùng ăn cơm (bát đũa)
Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
3.3.4. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:
- Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm: i, e, ê, iê.
- Luật bằng – trắc: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, lanh lảnh, sạch sẽ...) Trong các từ láy âm đầu, dấu thanh của 2 yếu tố ở cùng một hệ bằng (ngang - sắc - hỏi) hoặc trắc (huyền - ngã - nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc: Ngang - sắc - hỏi / Huyền - nặng –ngã
- Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, huyền, nặng. Nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngang, sắc, hỏi (hoặc ngược lại).
- Ví dụ:	 Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ
 Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ
 Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ
 Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã
 Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, lộng lẫy
 Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo
- Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Ngoài việc phát âm đúng, học sính cần chú ý thêm đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi(trâu...)
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa..sam, sán, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử, sơn dương,
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh 
+ Để phân biệt các âm cuối: Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là những từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, đùng đùng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng ,thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch,
+Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân,..
+ Vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ: ngoằn ngoèo, khoèo chân, ...
3.3.5. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
- Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ (Hướng đẫn học sinh làm bài tập chính tả rất cần thiết nhằm giúp học sinh khắc sâu kiến thức). 
- Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong mọi tình huống.Thường xuyên phối hợp với Phụ huynh học sinh bồi dưỡng rèn kĩ năng sống cho các em thông qua thực tế nhằm giúp các em hiểu thêm về vốn từ trong Tiếng Việt.
3.3.6. Làm các bài t

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_lop.doc