Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đại trà đảm bảo tính bền vững ở trường Trung học Co sở
Để nâng cao chất lượng giáo dục, đòi hỏi ngoài việc giáo viên tăng cường đổi mới về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, thì việc đổi mới công tác quản lí chỉ đạo ở các trường có nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong mấy năm qua ngành Giáo dục & đào tạo đang nhấn mạnh về nội dung chủ đề năm học “tích cực đổi mới công tác quản lí, đảm bảo và kiểm soát nâng cao chất lượng giáo dục THCS”. Với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, từ lãnh đạo sở, các chuyên viên phòng ban, lãnh đạo và bộ phận chuyên môn của từng phòng giáo dục trong tỉnh Lào Cai đã rất quyết liệt vào cuộc trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đại trà ở các trường THCS như: tăng cường tổ chức các đợt tập huấn, các buổi hội thảo nhằm nâng cao năng lực quản lí, năng lực giảng dạy của giáo viên.Tuy nhiên trong thực tế quản lí ở các trường THCS, việc thực hiện các văn bản của Sở, Phòng và vận dụng các nội dung được tập huấn của các cấp trong công tác quản lí chỉ đạo ở các trường còn chưa linh hoạt, chưa có tính sáng tạo, chưa có những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục ở từng trường. Vì vậy chất lượng giáo dục ở các trường đặc biệt là các trường vùng sâu vùng xa còn nhiều bất cập. Chất lượng giáo dục ở các trường chưa đảm bảo tính bền vững. Đặc biệt chất lượng giáo dục đại trà tỉ lệ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức tối thiểu còn chiếm tỉ lệ cao, khả năng vận dụng vào thực tiễn của học sinh còn yếu.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI TRÀ ĐẢM BẢO TÍNH BỀN VỮNG Ở TRƯỜNG THCS PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Đất nước Việt Nam đang trên con đường đổi mới để hướng tới mục tiêu năm 2020 sẽ trở thành đất nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Muốn vậy phải đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực để phù hợp với sự phát triển của đất nước và đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Trong đó đổi mới giáo dục có vai trò hết sức quan trọng. Mục tiêu của giáo dục là hướng tới đào tạo những con người vừa có kiến thức cơ bản đồng thời phải có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu với quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghĩa là giáo dục phải đổi mới mọi mặt từ công tác quản lí đến cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh, đổi mới về nội dung chương trình ... để tạo ra sản phẩm chất lượng giáo dục đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện và bền vững, tăng cường nâng cao khả năng vận dụng vào thực tiễn của học sinh. Để nâng cao chất lượng giáo dục, đòi hỏi ngoài việc giáo viên tăng cường đổi mới về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, thì việc đổi mới công tác quản lí chỉ đạo ở các trường có nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong mấy năm qua ngành Giáo dục & đào tạo đang nhấn mạnh về nội dung chủ đề năm học “tích cực đổi mới công tác quản lí, đảm bảo và kiểm soát nâng cao chất lượng giáo dục THCS”. Với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, từ lãnh đạo sở, các chuyên viên phòng ban, lãnh đạo và bộ phận chuyên môn của từng phòng giáo dục trong tỉnh Lào Cai đã rất quyết liệt vào cuộc trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đại trà ở các trường THCS như: tăng cường tổ chức các đợt tập huấn, các buổi hội thảo nhằm nâng cao năng lực quản lí, năng lực giảng dạy của giáo viên...Tuy nhiên trong thực tế quản lí ở các trường THCS, việc thực hiện các văn bản của Sở, Phòng và vận dụng các nội dung được tập huấn của các cấp trong công tác quản lí chỉ đạo ở các trường còn chưa linh hoạt, chưa có tính sáng tạo, chưa có những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục ở từng trường. Vì vậy chất lượng giáo dục ở các trường đặc biệt là các trường vùng sâu vùng xa còn nhiều bất cập. Chất lượng giáo dục ở các trường chưa đảm bảo tính bền vững. Đặc biệt chất lượng giáo dục đại trà tỉ lệ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức tối thiểu còn chiếm tỉ lệ cao, khả năng vận dụng vào thực tiễn của học sinh còn yếu. Để cải thiện phần nào thực tiễn trên đồng thời nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, với cương vị là phó hiệu trưởng phụ trách công tác chuyên môn, tôi đã đầu tư nghiên cứu sâu và xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chỉ đạo “ nâng cao chất lượng giáo dục đại trà đảm bảo tính bền vững ở trường THCS vùng sâu vùng xa”. PHẦN II: PHẠM VI VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG: 1. Phạm vi nghiên cứu: Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đại trà đảm bảo tính bền vững ở trường THCS. 2. Thời gian nghiên cứu và áp dụng: Nghiên cứu từ năm học 2011 – 2012 cho đến nay, thực hiện có bài bản, có tính khoa học sáng tạo và đem lại hiệu quả cao trong năm học 2013 – 2014 PHẦN III: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG: Chất lượng giáo dục tỉnh Lào Cai nói chung, chất lượng giáo dục huyện Bắc Hà nói riêng đang có nhiều chuyển biến tích cực thể hiện cụ thể là: Chất lượng mũi nhọn đang dần từng bước được khẳng định. Năm học 2013 – 2014, chất lượng HS giỏi lớp 9 cấp tỉnh của huyện Bắc Hà được xếp hạng thứ 4 trong số 9 huyện, thành phố trong tỉnh, đứng sau Thành Phố Lào Cai, Huyện Bảo Thắng, Huyện Bảo Yên. Chất lượng giáo dục đại trà ở các trường trong huyện đang có nhiều chuyển biến tích cực, tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng cao, tỉ lệ học sinh yếu kém chiếm tỉ lệ thấp. Học sinh có nhiều kĩ năng trong việc tiếp thu kiến thức và có các kĩ năng sống cơ bản tương đối tốt. Tuy nhiên qua các đợt được phòng giáo dục và đào tạo Bắc Hà trưng tập đi kiểm tra ở một số trường THCS trong huyện và sau khi tổ chức thực hiện kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục tại trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở (PTDTBTTHCS) Thải Giàng Phố. Khi thực hiện đối chiếu kiểm tra so sánh chất lượng từ năm học trước với bài khảo sát chất lượng đầu năm và bài kiểm tra thời điểm đoàn kiểm tra trực tiếp khảo sát. Tôi nhận thấy chất lượng giáo dục ở các trường đặc biệt các trường vùng cao chưa đảm bảo tính bền vững: tỉ lệ học sinh khá giỏi năm trước khá cao, không có hoặc rất ít tỉ lệ học sinh yếu. Nhưng kết quả khảo sát chất lượng đầu năm tiếp theo thì tỉ lệ học sinh khá giỏi lại rất thấp, tỉ lệ học sinh xếp loại yếu và kém còn chiếm tỉ lệ cao. Chất lượng giáo dục đoàn kiểm tra trực tiếp khảo sát còn nhiều hạn chế, bài làm của học sinh bộc lộ nhiều yếu kém: kĩ năng làm bài của học sinh còn yếu, tỉ lệ HS khá giỏi ít, tỉ lệ học sinh chưa đảm bảo chuẩn kiến thức và kĩ năng còn chiếm tỉ lệ cao, trong các giờ học học sinh còn trầm, kĩ năng học tập yếu và thiếu tự tin khi trình bày kiến thức. Đặc biệt học sinh giỏi tham gia dự thi cấp huyện, tỉnh vẫn còn tình trạng chưa nắm chắc được kiến thức cơ bản của bộ môn, khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống còn hạn chế. Chất lượng giáo dục tại trường tôi trực tiếp nghiên cứu và đã áp dụng các biện pháp trong sáng kiến(Trường PTDTBTTHCS Thải Giàng Phố) Bảng số liệu học sinh xếp loại yếu 8 môn học cơ bản của năm học 2012 – 2013 và chất lượng khảo sát đầu năm năm học 2013 - 2014 ( Đơn vị tính: %) Môn Học Tỉ lệ học sinh yếu Năm học 2012 -2013 Chất lượng khảo sát đầu năm năm học 2013 -2014 Tỉ lệ HS Yếu Học kì I Tỉ lệ HS Yếu cuối năm Tỉ lệ HS dưới TB Tỉ lệ HS trên TB Toán 29/165=17,6% 13/165=7,8% 90/177=50,8% 87/177=49.2% Văn 25/165=15.2% 12/165=7.3% 89/177=50.3% 88/177=49.7% Lí 16/165=9.7% 10/165=6.1% 91/177=51.4% 86/177=48.6% Sinh 14/165=8.5% 6/165=3.6% 84/177=47.5% 93/177=52.5% Sử 22/165=13.3% 8/165=4.8% 87/177=49.2% 90/177=50.8% Địa 13/165=7.9% 4/165=2.4% 94/177=53.1% 83/177=46.9% TA 29/165=17,6% 12/165=7.3% 93/177=52.5% 84/177=47.5% Hóa 6/61=9.8% 2/61=3.3% 41/77=53.2% 36/77=46.8% Bảng so sánh chất lượng học sinh hoàn thành chương trình lớp 5 so với chất lượng thực tế khảo sát đầu năm ở lớp 6 qua các năm ( Đơn vị tính: %) Môn Năm học 2011 -2012 Năm học 2012 - 2013 Chất lượng lớp 5 Chất lượng khảo sát đầu năm lớp 6 Chất lượng lớp 5 Chất lượng khảo sát đầu năm lớp 6 Khá giỏi TB Tỉ lệ HS dưới TB Tỉ lệ HS trên TB Khá giỏi TB Tỉ lệ HS dưới TB Tỉ lệ HS dưới TB Toán 58.2% 41.8% 70.2% 29.8% 49.3% 50.7% 65.7% 34.3% Tiếng Việt 49.7% 50.3% 69.8% 30.2% 53.7% 46.3% 68.2% 31.8% * Kĩ năng học sinh lớp 6 bộc lộ nhiều hạn chế: Chữ viết xấu, kĩ năng tính toán và kĩ năng đọc yếu, khả năng kết hợp nghe, đọc, viết chậm... Qua bảng số liệu so sánh có thể khẳng định rằng chất lượng giáo dục của nhà trường đã có những chuyển biến tích cực. Song so sánh chất lượng giáo dục qua các năm, các thời kì phản ánh còn nhiều bất cập: tỉ lệ học sinh xếp loại đạt yêu cầu không ổn định, số lượng học sinh yếu kém còn tồn tại với tỉ lệ tương đối cao. Đặc biệt chất lượng học sinh lớp 5 tiếp tục đi học lớp 6 không bền vững. Nguyên nhân là do: 1. Đa số HS chưa có nhận thức đúng đắn trong việc học tập. Sự cố gắng của các em chưa thường xuyên. Các em còn chưa có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, không có sự đam mê yêu thích các môn học, không hiểu bản chất kiến thức, mới chỉ ở mức độ học thuộc vẹt kĩ năng vận dụng kiến thức của học sinh còn yếu. Chất lượng học sinh lớp 5 tiếp tục đi học lớp 6 còn bộc lộ không thực chất bền vững và còn nhiều yếu kém, nguyên nhân do có sự chệnh về mặt phương pháp, cách thức tổ chức lớp học giữa 2 cấp học 2. Ở các trường vùng cao, đa số gia đình các em thuộc hộ nghèo, nhận thức của người dân về nâng cao dân trí còn hạn chế. Phần lớn phụ huynh học sinh không quan tâm đến việc học của con cái. Nhiều gia đình không tạo mọi điều kiện cho con cái đến trường. Còn những phong tục cổ hủ lạc hậu như bắt con cái lấy vợ, lấy chồng sớm hoặc bắt con cái ở nhà để làm nương dẫn đến chuyên cần hàng ngày không ổn định. Học sinh thường xuyên nghỉ học do đó các em bị rỗng kiến thức bộ môn và trở lên chán học. 3. Một số giáo viên nhận thức về thực hiện nhiệm vụ giáo dục còn hạn chế, thiếu sự tâm huyết và trách nhiệm với nghề nghiệp. Giáo viên chưa thật sự cố gắng trong từng tiết dạy. Phương pháp cách thức tổ chức cho học sinh tiếp thu kiến thức thiếu linh hoạt và chưa phù hợp với đối tượng học sinh. Năng lực sư phạm của một số giáo viên còn hạn chế, chưa có biện pháp hữu hiệu để thu hút học sinh yêu thích môn học của mình. Đặc biệt công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh chưa sát sao, chưa có sự đổi mới về kiểm tra đánh giá... 4. Công tác quản lí chỉ đạo của một số nhà trường không linh hoạt, sáng tạo. Các hoạt động tổ chức còn máy móc thiếu hiệu quả. Chưa có giải pháp khích lệ giáo viên và học sinh. Công tác quản lí chưa sát sao và chưa mang tính liên tục, thiếu chú ý đến việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, công tác kiểm soát chất lượng không chặt chẽ và chưa có giải pháp phát huy hiệu lực sau kiểm tra... PHẦN IV: NHỮNG GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Ngoài việc thực hiện nghiêm túc các yêu cầu theo điều lệ trường học và các qui định Bộ GD &ĐT, Sở giáo dục và đào tạo Lào Cai, phòng Giáo dục và Đào Tạo Bắc Hà thì để nâng cao chất lượng giáo dục đại trà ở các trường THCS đặc biệt các trường THCS ở vùng cao, tôi thiết nghĩ quản lí trong các nhà trường cần chỉ đạo, thực hiện tốt và có hiệu quả một số nội dung sau: 1. Tạo được hứng thú cho học sinh khi đến trường và giúp học sinh có được nhận thức đúng đắn về vai trò của việc học: Theo tôi, nhận thức của các em học sinh có vai trò đặc biệt quan trọng. Dù thầy cô giáo có cố gắng để hướng dẫn các em nghiên cứu và tìm tòi kiến thức mà không tạo cho các em được sự say mê, hứng thú và nhận thức hành động đúng đắn trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập thì giáo dục có nhiều đổi mới đi đến đâu chăng nữa, chất lượng giáo dục cũng không thực hiện được mục tiêu như mong muốn. Nhận thức và tạo cho học sinh thấy được hứng thú khi đến trường, đến lớp là một trong những biện pháp có hiệu quả và hữu hiệu nhất trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Vậy để làm tốt được biện pháp nêu trên vai trò của lãnh đạo nhà trường là hết sức quan trọng, thể hiện rõ được hiệu quả của một số việc làm sau: Cần phải làm tốt công tác tư tưởng đối với giáo viên chủ nhiệm. Tuyên truyền và quán triệt để giáo viên chủ nhiệm xác định được đúng đắn vai trò của mình. (Tức là đối với các em khi ở trường thì người giáo viên chủ nhiệm thay thế cho người mẹ hiền của các em). Thể hiện buổi đầu tiên khi gặp mặt với học sinh thì người giáo viên chủ nhiệm cần phải gần gũi, quan tâm, với thái độ vui vẻ để học sinh cảm nhận được sự yêu thương, chân thành, sự gần gũi của thầy cô. Qua đó, học sinh thấy được đến trường cô như người mẹ, người bạn và là điểm tựa vững chắc của các em. Ngoài ra thường xuyên dạy cho các em cách cử xử, ứng xử, cách bảo vệ bản thân, cách sinh hoạt và mọi nền nếp trong cuộc sống hàng ngày Chỉ đạo giáo viên giảng dạy phải đầu tư nghiên cứu trong từng tiết dạy để lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp. Phát huy được tính tích cực, chủ động của các em. Giúp các em tiếp thu kiến thức và tự tìm được kiến thức một cách dễ hiểu nhất. Hiểu rõ được bản chất của kiến thức từ đó tạo cho các em sự tự tin và có hứng thú với môn học. Chỉ đạo các đoàn thể tổ chức đa dạng các hoạt động, phong phú về nội dung. Điều này mang lại cho các em rất nhiều ý nghĩa. Qua đó các em thấy vui, thấy bổ ích, đồng thời giáo dục và rèn luyện cho các em những kĩ năng sống cơ bản. Từ đó giáo dục học sinh có nhận thức đúng đắn yêu trường yêu lớp Lãnh đạo nhà trường cần tổ chức các buổi gặp mặt trực tiếp với các em học sinh để nói chuyện hoặc tìm hiểu những băn khoăn và những khó khăn giúp các em gần gũi với mọi người. Các em thấy thật yên tâm khi đến trường. Mỗi khi đến trường đều nhận được sự quan tâm, những tình cảm thân thiết, gần gũi và gắn bó của tất cả thầy cô 2. Làm thay đổi nhận thức và hành động của giáo viên, tạo nên được tập thể đội ngũ tâm huyết trách nhiệm, hăng say phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục. Ngay từ đầu năm học cần phải quán triệt tới giáo viên các nhiệm vụ trọng tâm trong năm cần phải đạt. Cùng nhau trao đổi và thảo luận để đạt được nhiệm vụ trọng tâm đó thì trách nhiệm của tập thể, trách nhiệm của từng cá nhân phải làm gì. ( Nhiệm vụ này yêu cầu tập thể nhà trường thảo luận và từng giáo viên phát biểu ý kiến). Từ đó để giáo viên xác định đúng, rõ được nhiệm vụ thực hiện và vai trò trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Tích cực tuyên truyền, quán triệt để giúp giáo viên có những thay đổi về nhận thức. Làm thế nào để giáo viên xác định được các tiết lên lớp cần phải dạy tốt, dạy có hiệu quả để tạo uy tín, ấn tượng với học trò chứ không phải thực hiện nhiệm vụ để người khác kiểm tra đánh giá. Phải xác định rõ giá trị tiền lương hàng tháng thì phải có sản phẩm lao động tương ứng. Từ đó có trách nhiệm, lòng ham mê, tâm huyết và tận tụy với nghề nghiệp. Để làm tốt được nội dung trên thì vai trò của người lãnh đạo phải biết thu hút, lôi cuốn giáo viên trong các hoạt động, biết khen chê kịp thời. Những nhận xét đánh giá về việc thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên phải chính xác, công bằng, khách quan. Không để xảy ra tình trạng cào bằng hoặc làm thui chột sự cố gắng của người khác. Phải biết khích lệ giáo viên trong từng hoạt động; phải biết ghi nhận sự hăng say, cố gắng của giáo viên đúng lúc và kịp thời. Ví dụ: Qua các tiết dự giờ giảng dạy của giáo viên, nên nêu rõ những ưu điểm và những hạn chế cụ thể cần phải khắc phục ngay. Tránh tình trạng đánh giá sâu về hạn chế mà không nêu ưu điểm. Những đánh giá của lãnh đạo nhà trường phải mang tính thuyết phục. Thường xuyên tuyên dương những tấm gương điển hình tiên tiến để khích lệ giáo viên cố gắng thường xuyên. Phải tạo được uy tín của lãnh đạo nhà trường đối với tập thể đội ngũ. Ban giám hiệu cần gương mẫu đi đầu trong các hoạt động. Khi tổ chức các hoạt động cần sáng tạo, linh hoạt trong khâu tổ chức. Phát huy và làm tốt vai trò hiệu trưởng, phó hiệu trưởng là nòng cốt chuyên môn. 3. Nâng cao hiệu quả các buổi tổ chức hội thảo và tăng cường bồi dưỡng đội ngũ, hiệu quả giảng dạy. 3.1. Xác định những điểm mới và khó trong giảng dạy của từng năm học Ngay từ đầu các năm học, lãnh nhà trường cần phải xác định điểm mới, điểm khó, những nội dung cần thiết để bổ trợ cho nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác giảng dạy, tăng cường kiểm tra khả năng vận dung nội dưỡng bồi dưỡng hè vào thực tế giảng dạy.Từ đó xác định các biện pháp cụ thể để thực hiện, tăng cường tổ chức có hiệu quả các chuyên đề nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu quả giáo dục. Trong quá trình tổ chức cần chú ý phát huy vai trò và trí tuệ của tập thể trong việc xác định các biện pháp thực hiện các vấn đề khó và những vấn đề mới cần làm sáng tỏ. Ví dụ: Năm học 2011 – 2012: Điểm mới trong thực hiện chương trình dạy học để nâng cao chất lượng đó là ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học. Nhiều giáo viên mặc dù được tập huấn trong hè, tuy nhiên khi vận dụng vào giảng dạy còn lúng túng, thiếu hiệu quả, còn lạm dụng trong việc trình chiếu. Ngay sau khi thực hiện tái giảng được ổn định. Nhà trường cần phải chú ý tổ chức tập huấn cho giáo viên cách sử dụng công nghệ thông tin, nguyên tắc sử dụng và cách thức sử dụng. Bằng cách tổ chức thực hiện dạy một bài cụ thể có ứng dụng công nghệ thông tin. Từ bài thực hành đó sẽ phân tích và nêu rõ biện pháp, cách thức thực hiện có hiệu quả một cách cụ thể. Yêu cầu giáo viên thực hiện nghiêm túc những nội dung được thống nhất trong buổi hội thảo, nhà trường tăng cường kiểm tra chuyên đề theo những nội dung đã được nhà trường thống nhất và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Năm học 2012 – 2013: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học. Nhà trường cần tổ chức hội thảo yêu cầu giáo viên xác định được ý nghĩa của dạy học theo sơ đồ tư duy, trong quá trình vận dụng giáo viên có những khó khăn vướng mắc gì. Đối với kiểu bài khai thác kiến thức mới thì vận dụng sơ đồ tư duy như thế nào? Đối với kiểu bài ôn tập hoặc bài thực hành thì phải dạy như thế nào để giúp các em nhận thấy được nội dung các phần kiến thức thể hiện trên sơ đồ có sự lôgic và dễ hiểu rõ được bản chất kiến thức? (Tổ chức cho giáo viên thảo luận và thống nhất, lãnh đạo nhà trường căn cứ vào những trao đổi của giáo viên để thống nhất cách thực hiện). Sau đó nhà trường tăng cường công tác kiểm soát khả năng vận dụng thực hiện của giáo viên, đánh giá chất lượng sau tiết dạy có điều chỉnh ngay ( nếu cần) Năm học 2013 – 2014: Với nội dung dạy học phân hóa và phù hợp đối tượng, tinh giản nội dung chương trình. Ngay từ đầu năm học ban giám hiệu nhà trường cần tăng cường kiểm tra đột xuất bài soạn, giờ dạy về việc vận dụng nội dung bồi dưỡng hè của giáo viên vào trong thực tế giảng dạy. Để nắm bắt thông tin xem giáo viên thực hiện như thế nào, quá trình thực hiện đã linh hoạt chưa? còn khó khăn và vướng mắc như thế nào? Qua kiểm tra nhà trường xác định được những giáo viên nào làm tốt và giáo viên nào vận dụng chưa linh hoạt, còn hạn chế. Sau đó nhà trường sẽ tổ chức hội thảo chuyên đề để làm rõ và sáng tỏ cách thức thực hiện: Với chuyên đề dạy học phân hóa, phù hợp với đối tượng và tinh giản nội dung chương trình cần làm sáng tỏ được 3 nội dung là: Nội dung 1: Hiểu thế nào là dạy học phân hóa, thế nào là dạy học phù hợp với đối tượng và thế nào là dạy học tinh giản nội dung chương trình? Nội dung 2: Qua quá trình thực hiện gặp những khó khăn vướng mắc gì? Có ý tưởng sáng tạo gì không? Nội dung 3: Cần có biện pháp gì để thực hiện có hiệu quả chuyên đề này. * Lưu ý: Nội dung 1: Cần tập trung vào giáo viên còn hạn chế, còn yếu, bổ trợ là những giáo viên làm tốt có phương pháp giảng dạy sáng tạo. Nội dung 2: Từng cá nhân phát biểu, lãnh đạo nhà trường tổng hợp những khó khăn vướng mắc của giáo viên. Nội dung 3: Yêu cầu nhóm bộ môn trao đổi để đưa ra biện pháp hữu hiệu, lãnh đạo nhà trường tổng hợp và nhấn mạnh những biện pháp sáng tạo, linh hoạt, có hiệu quả và yêu cầu giáo viên đưa vào vận dụng. 3.2. Thực hiện tốt và có hiệu quả chuyên đề phụ đạo học sinh yếu kém: Chỉ đạo và quán triệt giáo viên và học sinh xác định được đúng vai trò của chuyên đề phụ đạo học sinh yếu kém là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất góp phần nâng cao chất lượng đại trà đảm bảo được tính bền vững. Để thực hiện có hiệu quả chuyên đề này thì lãnh đạo nhà trường cần chỉ đạo và thực hiện tốt các nội dung sau: 3.2.1.Tổ chức hội thảo xây dựng nội chương trình phụ đạo: Chỉ đạo giáo viên tập trung theo nhóm bộ môn cùng nhau phân tích đối tượng( học sinh còn yếu và hạn chế về cái gì? Phân tích nguyên nhân của hạn chế), xác định nội dung cần đạt chuẩn về mặt kiến thức và kĩ năng trọng tâm ở từng bộ môn theo từng khối lớp. Xây dựng nội dung chương trình dạy trong các buổi cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: Thứ nhất: Xây dựng nội dung chương trình phụ đạo phải phù hợp với đối tượng, phải căn cứ trên những mặt còn hạn chế của học sinh và có tác dụng bổ trợ tốt nhất cho việc nâng cao chất lượng đại trà. Ví dụ : Để học tốt được bộ môn Ngữ văn lớp 6 thì giáo viên cần phải phụ đạo cho học sinh nội dung kiến thức là gì? Rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản nào? Xây dựng nội dung phụ đạo bám sát vào những yêu cầu về mặt kiến thức và mặt kĩ năng. * Lưu ý: Để xác định được nội dung kiến thức và kĩ năng phụ đạo cho học sinh có hiệu quả thì người giáo viên cần phải nắm chắc
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_chi_dao_nang_cao_chat.doc