Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài tập chính tả phương ngữ giúp học sinh lớp 4 hạn chế lỗi chính tả do phương ngữ

Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài tập chính tả phương ngữ giúp học sinh lớp 4 hạn chế lỗi chính tả do phương ngữ

Ở bậc Tiểu học, phân môn chính tả là một phân môn có tầm quan trọng trong việc dạy học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Phân môn chính tả còn là phân môn có tính chất công cụ, nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học tập đầu tiên của trẻ. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc học môn Tiếng Việt và các môn học khác. Chính tả là hệ thống chữ viết được xem là chuẩn mực của một ngôn ngữ. Vì vậy, muốn viết đúng chính tả, ta phải tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập. Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát.

Chất lượng học tập các phân môn Tiếng Việt có quan hệ chặt chẽ nhân quả với nhau, phân môn này có ảnh hưởng và hỗ trợ cho phân môn kia. Nếu học tốt phân môn chính tả, học sinh có một công cụ hết sức đắc lực và hữu ích để ghi chép bài học chính xác, rõ ràng và nhanh chóng. Việc làm này không chỉ giúp học sinh tiểu học viết đúng mà còn giúp các em lĩnh hội chính xác các nội dung bài học. Viết đúng chính tả giúp học sinh có điều kiện để sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ môn văn hóa khác. Bài chính tả mang tính thực hành thông qua luyện tập liên tục, kết hợp với việc ôn tập các quy tắc chính tả, học sinh sẽ có khả năng viết đúng các chữ ghi Tiếng Việt.

doc 19 trang Mai Loan 23/05/2024 4071
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài tập chính tả phương ngữ giúp học sinh lớp 4 hạn chế lỗi chính tả do phương ngữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Ở bậc Tiểu học, phân môn chính tả là một phân môn có tầm quan trọng trong việc dạy học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Phân môn chính tả còn là phân môn có tính chất công cụ, nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học tập đầu tiên của trẻ. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc học môn Tiếng Việt và các môn học khác. Chính tả là hệ thống chữ viết được xem là chuẩn mực của một ngôn ngữ. Vì vậy, muốn viết đúng chính tả, ta phải tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập. Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát. 
Chất lượng học tập các phân môn Tiếng Việt có quan hệ chặt chẽ nhân quả với nhau, phân môn này có ảnh hưởng và hỗ trợ cho phân môn kia. Nếu học tốt phân môn chính tả, học sinh có một công cụ hết sức đắc lực và hữu ích để ghi chép bài học chính xác, rõ ràng và nhanh chóng. Việc làm này không chỉ giúp học sinh tiểu học viết đúng mà còn giúp các em lĩnh hội chính xác các nội dung bài học. Viết đúng chính tả giúp học sinh có điều kiện để sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ môn văn hóa khác. Bài chính tả mang tính thực hành thông qua luyện tập liên tục, kết hợp với việc ôn tập các quy tắc chính tả, học sinh sẽ có khả năng viết đúng các chữ ghi Tiếng Việt.
Ngoài ra, ở một số địa phương, do phát âm sai nên dẫn đến một số học sinh hiểu sai nghĩa và dẫn đến viết chính tả cũng sai.
Xuất phát từ những lí do trên nên bên cạnh sử dụng nhiều bài tập chính tả trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4; không chỉ dành riêng cho một vùng phương ngữ mà có thể áp dụng để chữa lỗi chính tả cho nhiều vùng phương ngữ khác nhau, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: “Một số bài tập chính tả phương ngữ giúp học sinh lớp 4 hạn chế lỗi chính tả do phương ngữ”.
Với đề tài này, tôi đã cố gắng phân loại lỗi chính tả do phương ngữ mà học sinh lớp 4 trường tôi thường mắc phải, giúp các em ghi nhớ các hiện tượng chính tả này. Đồng thời xây dựng một số bài tập chính tả phương ngữ phù hợp với học sinh Tiểu học (lớp 4) để thay thế cho một số bài tập chính tả không phải là dùng để rèn luyện lỗi phổ biến của học sinh lớp 4 tôi đã và đang giảng dạy. Bên cạnh bổ sung thêm bài tập cho học sinh, cung cấp thêm cho các em một số mẹo, luật chính tả nhằm giúp các em khắc phục lỗi chính tả do cách phát âm của vùng phương ngữ, gây hứng thú học tập của học sinh (vì các em được trực tiếp tham gia chữa lỗi chính tả mà thực tế mình hay mắc phải) từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu kĩ phân môn chính tả trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 4, khắc phục một số khó khăn, vướng mắc về lỗi chính tả do phương ngữ của học sinh lớp 4, làm phong phú thêm thủ pháp dạy học chính tả của Tiểu học nhằm phục vụ bản thân trong quá trình dạy học và đóng góp thêm một tài liệu có thể tham khảo cho đồng nghiệp. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng về “Một số bài tập chính tả phương ngữ giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thái Hòa hạn chế lỗi chính tả do phương ngữ”.
- Tham khảo tư liệu và sách báo có liên quan.
4. Đối tượng khảo sát , thực nghiệm:
- Học sinh lớp 4D trường Tiểu học Thái Hòa - Ba vì - Hà Nội.
- Tìm hiểu lỗi chính tả do phương ngữ mà học sinh thường mắc phải.
- Thay thế các bài tập chính tả đang học ở một số tiết bằng bài tập chính tả phương ngữ.
- Cung cấp thêm một số mẹo, luật chính tả.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp quan sát trực quan:
Tôi tiến hành quan sát việc dạy và học của giáo viên, học sinh lớp 4D thông qua các tiết học để thấy được lỗi chính tả phổ biến mà học sinh thường mắc phải rồi lập thành bảng theo dõi số liệu trước khi áp dụng đề tài này như sau:
Thời gian kiểm tra
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
Khảo sát đầu năm học
08 / 40
 12 / 40 
17 / 34
 3/ 40 
5.2. Phương pháp điều tra:
Trao đổi với giáo viên khối 4 về khả năng học tập môn tiếng việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng của các em học sinh, tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc dạy chính tả, những lỗi chính tả do phương ngữ khó khắc phục.
5.3. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
 	Nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học, tạp chí giáo dục, tài liệu về phương pháp giảng dạy phân môn chính tả, sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt 4, sách bồi dưỡng nâng cao và một số tài liệu tham khảo khác.
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tiến hành dạy thực nghiệm, áp dụng kinh nghiệm qua một năm học của lớp 4D Trường Tiểu học Thái Hòa, năm học 2018 - 2019.
5.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tích hợp nội dung, kết quả nghiên cứu thông qua các phương pháp nghiên cứu nói trên để đúc rút, tổng kết kinh nghiệm.
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2017 đến nay.
- Năm học 2017 - 2018 chính thức nghiên cứu, lập kế hoạch triển khai nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm.
- Năm học 2018 - 2019 nhân rộng sáng kiến kinh nghiệm trong nhà trường.
 	- Từ tháng 4 đến nay viết báo cáo sáng kiến kinh nghiệm đã nghiên cứu.
- Sử dụng số liệu điều tra trong 2 năm học: 2017 - 2018 và 2018 - 2019.
Nếu sáng kiến kinh nghiệm này thành công sẽ góp phần giúp học sinh trường Tiểu học Thái Hòa hạn chế mắc lỗi chính tả do phương ngữ. Nếu sáng kiến thành công tôi rất mong được áp dụng cho tất cả các đồng chí giáo viên trong trường.
 PHẦN II
NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng gắn liền với đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc mình được sử dụng làm phương tiện giao tiếp trong cộng đồng dân tộc đó. Nhưng tiếng Việt là tiếng nói phổ thông là ngôn ngữ chung thống nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, theo chiều dài lịch sử, dù là mặt bảo thủ nhất, ngữ âm Tiếng Việt, cụ thể là cách phát âm của người Việt có sự thay đổi và không phải hoàn toàn thống nhất trên mọi miền đất nước. Căn cứ vào cách phát âm cụ thể của từng vùng, dựa vào những điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm, tiếng Việt được chia ra thành ba vùng ngôn ngữ đó là phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam. Những đặc điểm chính về ngữ âm của phương ngữ của một số vùng miền Bắc nước ta là: 
- Về thanh điệu: không đủ 6 thanh, thanh ngã phát âm như thanh hỏi. 
- Về phụ âm đầu: Không có âm /v/. Âm vị này bị thay thế bằng âm /j/, có sự lẫn lộn trong cách phát âm các âm đầu: tr và ch/, s và x, d và gi, v và d
- Về âm đệm: chỉ tồn tại khi âm đầu là các phụ âm gốc lưỡi và âm họng. Nhiều âm tiết có âm đệm bị lượt bỏ trong lời nói. 
Ví dụ: tuyền tuyến > tiền tiến, thuế > thế, đời thuở > đời thở; xoáy > xáy; lòe lẹt > lè lẹt.
- Về âm chính: có hiện tượng thu hẹp độ mở của nguyên âm: /e/, /i/, /o/, /u/ trong các âm tiết không phải là âm tiết mở. Ví dụ: Thối > thúi, tôi > tui, rốn > rún.
- Về vần: Thường phát âm lẫn lộn các chữ ghi âm chính trong các vần như: ai/ay/ây/; ao/au/âu/; ăm/âm; ăp/âp; iu/iêu; im/iêm/êm/em; om/ôm/ơm; op/ôp/ơp/; ong/ông; ui/uôi/; ưu/ươu/ ...
Các nguyên âm đôi chỉ đủ 2 thành tố khi chúng xuất hiện ở âm tiết mở còn thành tố thứ 2 của chúng sẽ mất đi khi xuất hiện trong các loại âm tiết khác.
Ví dụ: Tiêm thuốc > têm thuốc; buồm > bồm; con hươu > con hơu.
Về âm cuối gốc lưỡi /y/ thường được phát âm thành âm đầu lưỡi /n/. 
Ví dụ: tan trường > tan trườn; bến cảng > bến cản; cây bàng > cây bàn.
Không phân biệt rõ: an/ang; at/ac; ăn/ăng; ăc/ăt; ân/âng; ât/âc; en/eng; et/ec; ên/ênh; êt/êch; iên/iêng; iêc/iêt; uôn/uông; uôt/uôc; ưt/ưc; ươn/ương; ươt/ươc ....
Hà Nội nằm trong vùng phương ngữ Bắc. Do đặc điểm ngữ âm mà học sinh Hà Nội đặc biệt là học sinh vùng ngoại thành, vùng nông thôn, vùng núi mắc nhiều lỗi chính tả về thanh hỏi, thanh nặng khá phổ biến. Ngoài ra học sinh còn mắc lỗi chính tả về âm đầu, về vần, về âm cuối, ngoài lí do không nắm vững chính tự, còn do phát âm phương ngữ tạo ra trong phương ngữ Bắc là khá lớn.
Vì thế khi dạy chính tả cho học sinh vùng ngoại thành, vùng nông thôn, vùng núi Hà Nội nơi tôi đang sinh sống người giáo viên cần phải chú ý, phải quan tâm đúng mức đến lỗi chính tả ở các phần này.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Trong thực tế giảng dạy chương trình môn Tiếng Việt, phân môn chính tả có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh các quy tắc viết đúng và rèn luyện để các em có kĩ năng, thói quen viết đúng chính tả, rèn luyện để các em có kĩ năng viết đúng quy trình con chữ, rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất: Tính kỉ luật, tính cẩn thận (vì phải viết thẳng hàng, ngay ngắn, đẹp đẽ). Đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
Trường Tiểu học Thái Hòa (nơi tôi trực tiếp giảng dạy), trong quá trình dạy học nói chung dạy chính tả cho học sinh lớp 4 nói riêng, giáo viên không những đóng vai trò là người truyền thụ kiến thức có sẵn mà là người tổ chức quá trình dạy học. Mọi học sinh đều được làm việc, đều được huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để tự học, tự giải quyết vấn đề; đều được rèn luyện phẩm chất tự chủ độc lập trên tinh thần hợp tác một cách tích cực, sáng tạo.
Kết quả việc dạy của người giáo viên không phải là dạy được kiến thức gì mà là hình thành kiến thức đó bằng cách nào?
Kết quả học tập của học sinh không chỉ là những tri thức, kĩ năng cơ bản cần thiết mà còn là phương pháp học tập, phương pháp suy nghĩ giải quyết vấn đề. Chính vì vậy kết quả giáo dục, chất lượng học tập ngày được nâng cao.
Mặc dù vậy, trong quá trình dạy học tôi nhận thấy chính mình và các đồng chí giáo viên khối 4 gặp không ít khó khăn trong việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh. Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng có thể nói do ảnh hưởng của phương ngữ là phổ biến hơn cả.
Về phía học sinh: Trong giờ chính tả các em được làm các bài tập chính tả đôi lúc chưa phải là thiết thực nên có thể hoàn thành bài tập rất nhanh (vì lỗi ấy các em không hoặc ít khi mắc phải) mà các dạng lỗi chính tả các em thường mắc phải thì chưa được rèn luyện đúng mức.
Vấn đề đặt ra trên đây dẫn đến hậu quả là học sinh có học mà vẫn còn sai. Qua quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn, tôi thấy học sinh lớp 4 thường mắc các loại lỗi sau:
* Về thanh điệu
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, nặng. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không phải là ít và rất phổ biến. 
Ví dụ: Sách vợ, bến cạng, bạng đen, mạng bám, chính tạ, 
Ngạ nghiêng, lắt lẹo, lụng cụng, đụng định, họi han, 
* Về âm đầu
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ d/gi: để giành, dành giật, giặt dũ, dỗ giành, 
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ, gé qua nhà
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, ngi kị 
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh (một số ít em mắc phải)
+ s/x: Cây soan , xa mạc, cây xung, sông ra , sơ xát
- Trong các lỗi này, lỗi về d/gi, s/x, đối với lớp tôi chủ nhiệm là phổ biến nhất.
* Về âm cuối
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc, ngan dọc, bảng làng, làng sóng
+ at/ac: lang bạc, lường gạc, rẻ mạc, hợp tát
+ ăn/ăng: tung tăn, lăng tăng, khắng khít
+ ăt/ăc: giặc giũ, mặt quần áo, mặt cho
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần, dân hiến
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên, bật thềm
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển
+ êt/êch: trắng bệt, hết mũi
+ ay/ây: vẩy cá, hoa lây ơn
+ im/iêm: dừa xim, lúa chim, chim ngưỡng, tim thuốc...
+ iu/iêu: dịu kì, diệu dàng,...
* Nguyên nhân mắc lỗi
+ Về thanh điệu:
Theo các nhà ngữ âm học, người miền Bắc và một số vùng miền Trung, đặc biệt là những vùng nông thôn, đồi, núi thường không phân biệt được 2 thanh hỏi, nặng. Người ta đã phát âm thanh hỏi như thanh nặng. Ngay hiện giờ một số học sinh trường Tiểu học Thái Hòa cũng phát âm sai như vậy (VD: cặng chân, phại trái, cại tiến, ...). Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu thanh rất phổ biến. 
+ Về âm đầu:
Trong phương ngữ Nam cũng như Bắc có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người miền Bắc còn một số vùng lẫn lộn v và d. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c /k /qu...) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh bậc Tiểu học thì rất dễ lẫn lộn.
+ Về âm chính
Có hai nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi / ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (kia - khuya, biên - tuyến, lửa - chương, mua - muôn); âm đệm lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: tuệ, khoa).
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ một số vùng ở Bắc Bộ đối với các âm chính trong hầu hết các vần như: 
tiền tuyến tiền tiến, tuệ tệ, thuyền bè thuền bè.
+ Về âm cuối:
Một số người miền Bắc phát âm hoàn toàn không phân biệt hai bán âm cuối/ i, u / lại được ghi bằng 4 con chữ i /y (trong: lai/ lay), u/ o (trong: sau/sao, tau/tao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía Bắc nói chung học sinh Thái Hòa nói riêng.
3. Các biện pháp thực hiện để giúp học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả do phương ngữ:
3.1. Thêm hoặc thay thế các bài tập chính tả trong sách giáo khoa bằng một số bài tập chính tả phương ngữ:
Tuần 1
Chính tả: (Nghe-viết): Dế Mèn bênh vực kẻ yếu
Bài tập 2 a vì học sinh tôi không sai lỗi về âm đầu l/n nên tôi cho HS đọc để thấy được nét đẹp giản dị tự nhiên của chị Chấm. Sau đó thay bài 2a. l hay n bằng:
a) tr hay ch?
Ôi ao! ...ú ...uồn ...uồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng ên lưng ú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu òn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu. ú đậu ên một cành lộc vừng ngả dài ên mặt hồ. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân.
Rồi đột nhiên, ú uồn uồn nước tung cánh bay vụt lên. Cái bóng ú nhỏ xíu lướt nhanh ên mặt hồ. Mặt hồ ải rộng mênh mông và lặng sóng. ú bay lên cao hơn và xa hơn. Dưới tẩm cánh chú bây giờ là lũy e xanh rì rào ong gió, là bờ ao với những khóm khoai nước rung rinh. Rồi những cảnh tuyệt đẹp của đất nước hiện ra: cánh đồng với những đàn âu thung thăng gặm cỏ, dòng sông với những đoàn thuyền ngược xuôi. Còn ên tầng cao là đàn cò đang bay, là ời xanh ong và cao vút...
 Nguyễn Thế Hội
Với bài tập này học sinh luyện lỗi về ch/tr (Thường có một số em mắc lỗi). Qua đó thấy được vẻ đẹp của chú chuồn chuồn nước, nét đẹp thanh bình ở làng quê Bắc Bộ nơi em đang sống. Khơi gợi, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quê hương đất nước không phải đâu xa hay cái gì đó trừu tượng mà là từ cảnh vật, con người hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của các em.
Tuần 2
Chính tả: (Nghe - viết): Mười năm cõng bạn đi học
Bài tập 3 về giải câu đố chắc chắn HS sẽ làm nhanh. Tôi cho học sinh làm bài chính tả làm thêm:(với bài này giáo viên chuẩn bị trên bảng phụ để tạo không khí thi đua vui vẻ không làm mất thời gian tiết học. Hoặc cũng có thể dùng làm bài kiểm tra ở tiết học tiếp theo):
Điền s hoặc x vào từng chỗ trống cho phù hợp:
a,........ao động b, ......ao giấy tờ c,.....in mời
d, lát.........au e,......em xét g, .........âu sắc
Tuần 3
Chính tả: (Nghe -viết): Cháu nghe câu chuyện của bà
Cho học sinh đọc bài tập 2a để nắm nội dung (vì hiện tượng sai chính tả về ch/ tr ít xảy ra), kết hợp cho học sinh tự luyện thêm bài tập sau:
Khoanh vào chữ cái trước từ viết sai chính tả:
a, khuyên bảo b, bảo bùng c, dầu mở
d, họa sĩ e, mở mang g, lỗi lầm
h, trổi dậy i, nổi buồn k, nỡ nang
* Giáo viên chuẩn bị bài tập này trên bảng phụ, hình thức thi đua giữa các nhóm đôi rèn luyện cách viết thanh hỏi/ thanh ngã.
Tuần 5
Chính tả: (Nghe-viết): Những hạt thóc giống
Bài 2a rèn viết đúng l/ n học sinh tôi không sai lỗi này nên tôi cho học sinh đọc nội dung bài để giáo dục tính trung thực trong học tập, sau đó thay bằng bài sau:
Tìm những chữ bắt đầu bằng d hoặc gi điền vào chỗ bị bỏ trống trong đoạn văn sau:
Thầy ....em tuy đã ....nhưng ........dẻ vẫn hồng hào vì thầy chăm tập thể ....và ....gìn sức khỏe......nói của thầy sang sảng,.....đi nhanh nhẹn, thầy dạy rất ...hiểu,....bài rất hấp dẫn. Thầy luôn dịu......với chúng em. Em nào.thầy khen. Em nào chưa hiểu bài, thầy ....giải cho thật hiểu.
Tuần 7
Chính tả: (Nhớ - viết): Gà Trống và Cáo
Thay yêu cầu bài 2a với yêu cầu sau:
a, Tìm những chữ bị bỏ trống bắt đầu bằng s hoặc x
Con người là một ... vật có trí tuệ vượt lên trên mọi loài có phẩm chất kì diệu là biết mơ ước. Chính vì vậy họ khám phá được những bí mật nằm ... trong lòng đất, chế ngự được đại dương, chinh phục được khoảng không vũ trụ bao la. Họ là chủ nhân ... đáng của thế giới này.
Tuần 9
 Chính tả:( Nghe - viết): Thợ rèn
Thay bài 2a bằng bài sau:
2a. Điền d hoặc r, gi vào chỗ trống:
Một con đường uốn cong lượn khúc ngăn cách phố và biển. Bên trong là vách núi đá ...ựng đứng, cao sừng sững. Bên ngoài là biển ...ộng mênh mông tạo thành một góc vuông vức. Người ở xa đến trông cảnh tượng này có cảm ...ác vừa ...ờn ...ợn, e ...ằng một con sóng ...ữ đập vào vách đá sẽ cuốn băng cả ...ãy nhà nhỏ bé kia xuống đáy biển khơi.
 (Cát Bà hòn đảo Ngọc)
 Tuần 12
Chính tả: (Nghe -viết): Người chiến sĩ giàu nghị lực
Cho HS đọc bài 2a để hiểu thêm câu chuyện Ngu Công dời núi
Sau đó thêm bài sau:
2a/ s hay x?
Quả măng cụt tròn và ....inh ...ắn như quả cam. Thâm tím ...ẫm ngả ... ...ang màu đỏ ...im. Vỏ dày và rắn, phải là bàn tay lực ...ĩ thì mới bóp vỡ nổi. Cuống nó to và ngắn, quanh cuống có bốn hoặc năm cái tai tròn úp thìa vào nhau.
Bài làm thêm: Thi tìm các từ chứa tiếng có vần:
a, an:.................	 c, ang:.........................
b, ươn:..............	 d, ương:......................
Tuần 17
Chính tả:(Nghe -viết): Mùa đông trên rẻo cao
Tôi chọn bài 2b, 3 trang 165 -166 cho HS làm tại lớp. Thay bài 2a bằng bài sau:
* Chọn một trong hai từ ở ngoặc đơn điền vào chỗ trống:
- Anh ấy... cho tôi một con...nhíp.(dao, giao)
- Trong... lát, anh ấy đã buộc xong sợi ....thép.(dây, giây)
Tuần 18
Ôn tập cuối kì I
Bài ôn tập cho HS làm thêm trong tuần này (ở nhà)
- Điền dấu hỏi hoặc dấu nặng vào chữ được gạch chân trong đoạn văn sau cho phù hợp:
Một hôm, sau khi làm việc quần quật, bác nông dân tựa lưng vào bức tường đê nghi cho lai sức. Trong lúc bác thiu thiu ngu, một con chim ưng từ đâu bay tới, quắp mũ của bác đi, bác nông dân giât mình tinh giấc, bác tức giận đuôi theo chim ưng và phát hiên ra đó chính là chú chim mình đã cứu sống. Vừa đuôi theo chim, bác vừa hét: 
- Này chim ưng, ta đã cứu ngươi, sao ngươi lai trêu choc ta?
Rồi chim ưng buông tra mũ. Đúng vào lúc bác nông dân cúi nhặt chiếc mũ thì bức tường lúc nãy bác tưa lưng bỗng đô ập xuống, đè nát tất ca các thứ ơ bên trong.
 (Trích trong vở BTPTNL môn Tiếng việt 4 - Tập I - Tuần 18 - Phần Đọc hiểu)
Tuần 23
Chính tả: (Nhớ- viết): Chợ Tết
Bài làm thêm
- Những từ nào viết sai ?
a, ấm ức b, dức khoát c, đứt hạnh d, bức tranh
e, day dứt g, mức độ h, mứt kẹo i, đức dây
- Điền tiếp tiếng có vần ưt hoặc vần ưc vào chỗ trống để hoàn chỉnh các thành ngữ, tục ngữ sau:
a, ..........khuya dậy sớm
b, Tay .........ruột xót
Tuần 25
Chính tả:( Nghe -viết): Khuất phục tên cướp biển
Bài làm thêm
Thi điền ên hoặc ênh vào chỗ trống để hoàn chỉnh các từ sau:
a, con nh 	b, mũi t ...	c, b ...vững
d, l... kh.....	e, cồng k .....	g, ngã k ....
Tuần 26
Chính tả:( Nghe -viết): Thắng biển
Thay bài 2a bằng bài sau:
Điền vào chỗ trống s hay x ?
Những ...óm làng trên cù lao ...ông Tiền có từ bao đời nay không hề biến động có những vườn cây mới trồng nhưng bạc ngàn là những vườn cây cổ thụ. Những rãnh nước được dẫn từ...ông vào tưới tắm cho gốc cây bốn mùa ẩm ướt mảng cầu, chôm chôm, vú ...ữa, ...oài tượng, ...oài cát mọc chen nhau.
Tuần 29
Chính tả:(Nghe -viết): Ai đã nghĩ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bai_tap_chinh_ta_phuong_ngu_giu.doc