Sáng kiến kinh nghiệm Dạy từ vựng trong môn Tiếng Anh cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy từ vựng trong môn Tiếng Anh cho học sinh Lớp 4

Cơ sở lí luận

Mục tiêu giáo dục tiểu học là bước đầu đào tạo ra những chủ thể biết chủ động, sáng tạo, sớm thích nghi, hòa nhập với thế giới xung quanh và góp phần vào phát triển đất nước trong tương lai. Vì vậy, việc dạy và học môn Tiếng Anh trong trường tiểu học hiện nay được các cấp quan tâm và chú trọng.

Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân (Đề án 2020) với mục tiêu “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Với tinh thần và mục tiêu mà đề án đưa ra giúp cán bộ quản lí và đội ngũ giáo viên thấy được tầm quan trọng của việc dạy và học tiếng Anh hiện nay, đặc biệt là trong giao tiếp.

Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng D. A. Wilkins đã nói rằng: “Without grammar, very little can be conveyed; without vocabulary, nothing can be conveyed.” (Nghĩa là: Không có ngữ pháp, rất ít thông tin có thể được truyền đạt; Không có từ vựng, không một thông tin nào có thể được truyền đạt cả). Thử hình dung rằng chúng ta không có một nguồn từ vựng tiếng Anh giao tiếp nào, khi chúng ta muốn tiếp nhận và truyền đạt thông tin, nói cho người khác hiểu, chúng ta sẽ dùng cái gì ? Vì thế trong việc học một ngoại ngữ, thì từ vựng có thể xem như các tế bào nhỏ hình thành nên khả năng sử dụng ngoại ngữ của người học. Bạn càng biết được nhiều từ thì bạn sẽ càng giao tiếp được nhiều hơn. Vì vậy, việc học từ vựng cực kì quan trọng đối với người học tiếng Anh. Xác định được điều đó, giáo viên cần nỗ lực phát triển từ vựng cho học sinh của mình cũng như giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp sử dụng vốn từ vựng các em đã được học.

 

doc 24 trang hoathepmc36 01/03/2022 15516
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy từ vựng trong môn Tiếng Anh cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang 
I
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
1
Lí do chọn đề tài
2
2
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 
2
3
Đối tượng nghiên cứu
2
4
Giới hạn của đề tài
2
5
Phương pháp nghiên cứu
2
II
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1
Cơ sở lý luận
3
2
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
3
3
Nội dung và hình thức của giải pháp
4
Bổ sung tên các giải pháp
III
Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1
Kết luận
23
2
Kiến nghị
24
Tài liệu tham khảo
26
Phần thứ nhât: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, ngoại ngữ có vai trò vô cùng quan trọng, trong đó tiếng Anh là ngôn ngữ chung của thế giới. Những năm gần đây, môn Tiếng Anh được xem là một trong những môn học chính thức và là một trong ba môn thi bắt buộc trong các kì thi tốt nghiệp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và trường chuyên nghiệp. Đối với cấp Tiểu học, môn Tiếng Anh được đưa vào giảng dạy chính thức từ lớp 3, giúp các em bước đầu được tiếp xúc, lĩnh hội và phát triển một số kĩ năng cơ bản, tạo tiền đề tốt cho tương lai. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm đến vấn đề dạy và học ngoại ngữ.
Tiếng Anh hiện nay thiên về giao tiếp, vậy để việc sử dụng ngôn ngữ Tiếng Anh trở thành một công cụ giao tiếp hiệu quả thì trước tiên đòi hỏi người nói phải có vốn từ vựng phong phú, bởi từ vựng là tiền đề và nền tảng để vận dụng, thực hành các kỹ năng khác trong giao tiếp. Vì vậy, học từ vựng rất quan trọng trong việc học tiếng Anh. Tuy nhiên, đa phần học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của từ vựng, chỉ học qua loa, học thuộc lòng một cách chống đối, không biết vận dụng tốt vốn từ và phát huy vốn từ một cách hiệu quả.
Thực tế, đối tượng học sinh ở cấp Tiểu học còn nhỏ, ham chơi và còn hiếu động. Hầu hết các em học trước quên sau, học nhưng chưa thể hiểu rõ và sâu sắc vấn đề, điều đó làm cho việc dạy và học của thầy và trò gặp một vài khó khăn. Học sinh có lúc rất hào hứng, thích tìm tòi, khám phá những điều mới lạ, nhất là những hình ảnh gây ấn tượng và cảm xúc mạnh, nhưng nếu lặp đi lặp lại nhiều lần các em lại nhanh chán. Vậy, làm thế nào để giúp học sinh có thể hứng thú trong việc học từ vựng, ghi nhớ nhanh và hiểu sâu ? Làm sao để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện tối ưu cho việc rèn luyện, phát triển và nâng cao kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp ? Từ những khó khăn thực tiễn và băn khoăn, lo lắng của bản thân, tôi đã lựa chọn đề tài “Một số kinh nghiệm dạy từ vựng trong môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu, tìm phương pháp phù hợp, hiệu quả giúp các em học tốt từ vựng.
II. Mục đích nghiên cứu
Nêu được vai trò và tầm quan trọng của từ vựng ; Nghiên cứu thực trạng học sinh khối lớp 4 trường Tiểu học Trần Phú và đưa ra một số giải pháp phù hợp trong việc giới thiệu từ vựng cũng như hướng dẫn học sinh cách học và ghi nhớ từ vựng. 
Giúp học sinh hứng thú, tự tin và hợp tác tích cực hơn trong quá trình học tập; Hiểu và biết cách ghi nhớ từ vựng trong quá trình học tập, đồng thời có cơ hội thể hiện bản thân cũng như thực hành được kĩ năng nghe và nói nhiều hơn. Từ đó nâng cao chất lượng học từ vựng nói riêng và chất lượng môn Tiếng Anh nói chung.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận
Mục tiêu giáo dục tiểu học là bước đầu đào tạo ra những chủ thể biết chủ động, sáng tạo, sớm thích nghi, hòa nhập với thế giới xung quanh và góp phần vào phát triển đất nước trong tương lai. Vì vậy, việc dạy và học môn Tiếng Anh trong trường tiểu học hiện nay được các cấp quan tâm và chú trọng. 
Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân (Đề án 2020) với mục tiêu “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình  độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Với tinh thần và mục tiêu mà đề án đưa ra giúp cán bộ quản lí và đội ngũ giáo viên thấy được tầm quan trọng của việc dạy và học tiếng Anh hiện nay, đặc biệt là trong giao tiếp. 
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng D. A. Wilkins đã nói rằng: “Without grammar, very little can be conveyed; without vocabulary, nothing can be conveyed.” (Nghĩa là: Không có ngữ pháp, rất ít thông tin có thể được truyền đạt; Không có từ vựng, không một thông tin nào có thể được truyền đạt cả). Thử hình dung rằng chúng ta không có một nguồn từ vựng tiếng Anh giao tiếp nào, khi chúng ta muốn tiếp nhận và truyền đạt thông tin, nói cho người khác hiểu, chúng ta sẽ dùng cái gì ? Vì thế trong việc học một ngoại ngữ, thì từ vựng có thể xem như các tế bào nhỏ hình thành nên khả năng sử dụng ngoại ngữ của người học. Bạn càng biết được nhiều từ thì bạn sẽ càng giao tiếp được nhiều hơn. Vì vậy, việc học từ vựng cực kì quan trọng đối với người học tiếng Anh. Xác định được điều đó, giáo viên cần nỗ lực phát triển từ vựng cho học sinh của mình cũng như giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp sử dụng vốn từ vựng các em đã được học.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 
Hàng năm, từ Sở đến Phòng Giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, tập huấn chuyên môn về phương pháp dạy học để cùng nhau trao đổi, thảo luận, tìm ra những biện pháp hay, tích cực và hiệu quả nhất để áp dụng vào quá trình dạy học. Những năm gần đây, thay vì tổ chức các cuộc thi thiên về kiến thức ngữ pháp thì các buổi giao lưu, cuộc thi hùng biện theo hướng giao tiếp ngày càng được được quan tâm.
Ngoài ra, nhà trường cũng đặc biệt quan tâm đến bộ môn Tiếng Anh. Hàng năm, môn Tiếng Anh được bổ sung nhiều đồ dùng học tập, bố trí phòng học tiếng Anh riêng, có máy chiếu và một số công cụ hỗ trợ riêng nên rất thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động dạy từ vựng.
Các giáo viên dạy tiếng Anh ngày càng được trẻ hóa, nhiệt tình; luôn biết tìm tòi, sáng tạo và tìm ra những phương pháp dạy học tốt, phù hợp nhất với mục tiêu giáo dục hiện nay. 
Chương trình sách giáo khoa có nội dung kiến thức phù hợp, gần gũi với cuộc sống thực tế của học sinh, có nhiều tranh ảnh sinh động, tạo hứng thú cho học sinh. Việc học sinh khối lớp 4 được học theo chương trình đề án 4 tiết/ tuần giúp giáo viên và học sinh có thêm nhiều thời gian để tổ chức các hoạt động và cho học sinh thực hành nhiều hơn.
Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp giáo viên có được nhiều nguồn tư liệu dạy học qua Internet.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc dạy và học tiếng Anh cũng còn có nhiều khó khăn như sau :
+ Môn Tiếng Anh là môn học khó, ngoài giáo viên dạy tiếng Anh thì nhiều giáo viên, phụ huynh học sinh chưa được tiếp cận. Vì thế, việc hỗ trợ cho học sinh học tập ở lớp cũng như ở nhà gần như là không có. Một số phụ huynh chưa hiểu rõ tầm quan trọng của môn Tiếng Anh nên chưa thật sự quan tâm và đầu tư cho việc học của con em mình.
+ Với học sinh tiểu học, các em chưa có môi trường để thực hành kĩ năng giao tiếp nên việc hình thành thói quen nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh trong và ngoài giờ học chưa có, kể cả những từ, câu chào hỏi đơn giản mà các em có thể sử dụng hàng ngày nên các em còn rụt rè, thiếu tự tin trong giao tiếp. 
+ Nhiều em ý thức học môn Tiếng Anh chưa cao, phần lớn các em không thích học phần từ vựng mà thường có thói quen học vẹt, không nhớ nghĩa của từ,... Vì vậy, các em nhanh quên từ, tỉ lệ học sinh có thể phát âm đúng từ và nhớ từ vựng ngay tại lớp rất ít, số học sinh nghe và viết đúng từ không cao . 
Trước khi nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát lớp 4A và 4B năm học 2016 - 2017, kết quả cụ thể như sau:
TSHS
Hứng thú học
Phát âm đúng
Nghe- viết đúng
Nhớ từ ngay tại lớp
Giao tiếp được các tình huống cơ bản
62 em
45 em (72,6%)
37 em (59,7 %)
33 em (53,2 %)
35 em (56,5 %)
30 em
(48,4 %)
+ Sĩ số học sinh /lớp đông nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc kèm cặp, hỗ trợ, giúp đỡ từng cá nhân - nhóm học sinh; thời gian luyện tập của các em cũng bị hạn chế.
Từ những khó khăn trên, bản thân đã tìm các giải pháp kết hợp vận dụng khá nhiều phương pháp vào việc dạy từ vựng cho học sinh lớp 4 tại đơn vị, nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cụ thể như sau.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề	
1. Giúp học sinh hiểu vai trò và tầm quan trọng của từ vựng
Khi học sinh bắt đầu làm quen học tập môn Tiếng Anh, giáo viên cần phân tích cho các em hiểu: nếu người học vốn từ vựng ít hoặc nắm từ vựng yếu thì người đó sẽ không nghe, nói và giao tiếp được. Khi đọc các câu, các bài đọc, các em sẽ không hiểu được nội dung bài và không làm được bài tập. Vì thế, từ vựng có vai trò rất quan trọng vì nó truyền tải quan điểm, tư tưởng của người nói. Đối với tiếng Anh, ngữ pháp giúp kết hợp từ lại với nhau nhưng ý nghĩa lại ở trong từ ngữ; chúng ta càng biết được nhiều từ vựng thì việc giao tiếp càng thuận lợi hơn. Cũng như trong tiếng Việt, từ vựng chính là nguyên liệu để nói, khi bắt đầu học thì chúng ta sẽ phải học từ từ rồi mới đến câu. Và không ai có thể bỏ qua công đoạn học từ vựng, dù là bạn học ngôn ngữ gì. Thử tưởng tượng, nếu như chúng ta muốn truyền đạt một ý tưởng, hay một thông điệp nào đó nhưng không có vốn từ vựng thì chúng ta sẽ diễn đạt bằng cách nào ? Thực tế, khi chúng ta giao tiếp với người nước ngoài, hầu như chúng ta không mấy để ý đến ngữ pháp, mà chỉ cần sử dụng vốn từ để giúp họ hiểu được chúng ta muốn nói gì.
Mặt khác, từ vựng không chỉ là yếu tố, là điều kiện giúp truyền đạt những tư tưởng, tình cảm và ý nghĩ mà nó còn giúp chúng ta hiểu được người khác nói gì, có như vậy chúng ta mới có thể giao tiếp được.
Đối với học sinh tiểu học, các em mới tiếp xúc với tiếng Anh, các em lại càng chưa thể hiểu sâu và nhớ được những kiến thức ngữ pháp phức tạp. Vì vậy, vai trò của từ vựng lại càng quan trọng, nó chính là thứ nguyên liệu quan trọng nhất trong việc diễn đạt ý tưởng của các em.
Ví dụ:
2. Lựa chọn từ vựng phù hợp với mục tiêu bài dạy
Thông thường, trong một bài học xuất hiện khá nhiều từ mới. Tuy nhiên, không phải từ mới nào xuất hiện trong bài học giáo viên cũng đưa vào phần giới thiệu từ mới bởi sẽ làm cho các em thấy nhiều, khó nhớ hết, áp lực khi phải nhớ từ. Ngoài ra, nếu dạy quá nhiều từ sẽ không đảm bảo về mặt thời gian và thực hành cho tất cả học sinh. Vì vậy, giáo viên phải biết lựa chọn, xác định từ tích cực, chủ động để dạy và cố gắng giúp học sinh hiểu và phát huy hết khả năng tự học hỏi của các em đối với những từ vựng khác.
Để việc dạy từ vựng có hiệu quả tốt nhất, giúp học sinh hứng thú và nhớ lâu, trước hết, giáo viên phải xác định được mục tiêu của từng bài dạy, từ đó xác định được những từ mới cần thiết phải dạy trong bài.
- Từ chủ động (active vocabulary) : Là những từ liên quan đến nội dung, mục tiêu và mẫu câu của bài học đó mà bắt buộc giáo viên cần phải dạy. Hầu hết các từ này được nêu rõ ở cột thứ ba (Vocabulary) của Book map, sách giáo khoa. 
Ví dụ: Khi dạy Unit 15 “When’s Children’s Day ?” Lesson 1. (Hình ảnh) Giáo viên xác định được mục tiêu của bài học là giới thiệu về một số ngày lễ và thời gian diễn ra các ngày lễ đó, với cách sử dụng mẫu câu: When is + festival ? – It’s on the + time. Vậy các từ mới giáo viên bắt buộc phải dạy là: Children’s Day, New Year, Teacher’s Day và Christmas. Còn các từ vựng về ngày, tháng học sinh đã được học ở học kì một nên giáo viên chỉ cần hướng dẫn hoặc gợi ý cho học sinh nhắc lại.
Đối với từ chủ động, giáo viên cần giới thiệu cho các em biết chữ viết, nghĩa của từ , cách phát âm và cách dùng chúng trong câu, trong giao tiếp. Ngoài ra cần cho các em thực hành theo bốn kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Thông thường, số lượng từ cần dạy phù hợp với đối tượng học sinh lớp Bốn là 5- 8 từ, phụ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh.
- Từ bị động (passive vocabulary) : Là những từ xuất hiện trong bài nhưng không nằm trong mục tiêu của tiết dạy, vì vậy giáo viên chỉ cần giúp các em nhận biết từ. Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu nội dung bài nhưng khó để học sinh có thể đoán thì giáo viên nên giải thích cho học sinh hiểu nghĩa của từ; Nếu từ đó không khó lắm thì giáo viên nên cho học sinh đoán dựa vào ngữ cảnh của bài.
Ví dụ: Cũng với bài dạy Unit 15 “When’s Children’s Day ?” ở trên. (Hình ảnh) Ngoài càng từ chủ động tôi đã nêu ở trên thì các từ như: smart, party và join được coi là từ bị động. Và giáo viên chỉ cần cho học sinh nhìn tranh, đặt vào ngữ cảnh và nội dung câu có chứa từ đó, cho học sinh đoán nghĩa của từ và hiểu nghĩa của nội dung bài mà không cần đi sâu, dạy từng bước như những từ chủ động.
Chuẩn bị tốt trang thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, flash card, vật thật) phù hợp với nội dung của bài ; chuẩn bị, sắp xếp lớp học phù hợp để tổ chức các hoạt động đạt hiệu quả tốt nhất.
	Lựa chọn hình thức vào bài gây hứng thú và kích thích sự tập trung của các em vào bài học, tạo được không khí thoải mái trong giờ học. Thông thường, sau khi giới thiệu từ vựng, tôi đã hướng dẫn cho học sinh theo trình tự 4 bước như sau:
	Bước 1 - Nghe: Giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc mở băng từng từ một.
Bước 2 - Nói: Sau khi cho các em nghe từ 2- 3 lần, giáo viên cho cả lớp nhắc lại rồi gọi một vài em nhắc lại.
Bước 3 - Đọc: Khi học sinh nghe và nhắc lại từ, giáo viên viết từ lên bảng, yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh và gọi đọc cá nhân đồng thời sửa lỗi phát âm cho các em. Tôi cần hướng dẫn kĩ cách phát âm, nhấn trọng âm từ và cho học sinh thực hiện lại nhiều lần.
Bước 4 - Viết: Yêu cầu học sinh viết từ vựng vào vở sau khi thực hành xong kĩ năng nghe, nói, đọc và hiểu nghĩa của từ.
Tóm lại, để có một tiết dạy và học từ vựng đạt hiệu quả, giáo viên cần chuẩn bị chu đáo về đồ dùng dạy học, lên kế hoạch và xác định rõ mục tiêu từ đó xác định loại từ vựng và các bước dạy chúng.
3. Một số thủ thuật trong phần giới thiệu từ vựng
3.1. Giới thiệu từ thông qua các đồ dùng trực quan- Visuals
a) Tranh ảnh - Picture.
Giới thiệu từ thông qua tranh ảnh có lẽ là cách thông dụng nhất mà giáo viên thường sử dụng trong quá trình giảng dạy vì hiện nay các hình ảnh được khai thác qua phần mềm Sách mềm.vn hay internet đều rất phong phú, bắt mắt, dễ sử dụng và tiết kiệm. Phương pháp này có thể áp dụng cho hầu hết các bài dạy.
Ví dụ: Khi dạy Unit 13 “Would you like some milk ? – Lesson 1”. Để giới thiệu các từ mới về một số loại thức ăn, đồ uống như: thịt bò, thịt heo, nước ép cam, nước, thay vì dùng vật thật vừa không hợp vệ sinh lại không tiết kiệm, cách đơn giản nhất là giáo viên đưa tranh minh họa cho từng loại, cho học sinh nhìn tranh và đoán từ. Sau khi đưa tranh, giáo viên hỏi: What’s this ?/ What’s kind of food/ drink ? Học sinh có thể trả lời bằng tiếng Việt (học sinh yếu) hoặc tiếng Anh. Trường hợp học sinh trả lời bằng tiếng Việt, tôi yêu cầu học sinh năng khiếu chuyển sang tiếng Anh, từ đó giúp các em khắc sâu từ vựng.
Hình 1: Học sinh đang học từ qua tranh ảnh.
b) Vật thật - Realia
Dùng vật thật để giới thiệu từ mới trong một số bài dạy giúp tiết kiệm chi phí vì chúng có sẵn trong lớp học, xung quanh chúng ta mà chúng ta có thể dễ dàng tìm được. Hơn nữa, dùng vật thật bao giờ cũng hấp dẫn, gây hứng thú hơn cho học sinh, giúp bài học trở nên sinh động, lúc nào học sinh cũng có thể nhìn thấy nó và liên tưởng đến từ vựng mình đã học.
Ví dụ: Khi dạy Unit 8 “What subjects do you have today ? Lesson 1” - Giới thiệu về các môn học. Giáo viên cầm quyển sách Tiếng Anh và hỏi “What subject is it ?”. Học sinh sẽ trả lời được ngay đó là môn Tiếng Anh. Áp dụng với các từ chỉ môn học còn lại. 
Hình 2: Giáo viên đang giới thiệu các môn học
Trong dạy học môn Tiếng Anh có nhiều đồ dùng trực quan có thể sử dụng vào việc dạy từ vựng, nhưng bản thân nhận thấy sử dụng tranh và vật thật là đơn giản và phù hợp với trình độ của học sinh tiểu học bởi đồ dùng trực quan giúp tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú, không cảm thấy nhàm chán và đặc biệt nó gần gũi, kích thích trí tưởng tượng và tư duy ở các em, giúp các em khắc sâu và nhớ lâu từ vựng.
3.2. Giới thiệu từ bằng cử chỉ, điệu bộ - Mine
Trong dạy học, bản thân tôi khá thường xuyên sử dụng thủ thuật này để dạy từ vựng, đặc biệt là các từ liên quan đến hoạt động và thấy rất hiệu quả. Mỗi lần quan sát giáo viên làm cử chỉ, điệu bộ, học sinh tỏ ra rất thích thú, kèm theo đó là những nụ cười sảng khoái giúp các em có một cảm giác rất thoải mái như đang chơi trò chơi, các em rất mạnh dạn đoán từ mà không áp lực vì trả lời sai.
Ví dụ: Khi dạy Unit 5: Can you swim ? - Lesson 1, nói về các hoạt động như bơi, nhảy dây, nấu ăn Tôi sẽ thực hiện một vài cử chỉ, điệu bộ minh họa và hỏi: What am I doing ?
 3a 3b
Hình 3: Giáo viên đang giới thiệu các hoạt động 
	Các em quan sát, nêu từ chỉ hành động tương ứng (Hình 3a: Skip ; Hình 3b: Swim). Nếu học sinh chưa nêu đúng từ vựng, tôi yêu cầu học sinh khác hỗ trợ. 
3.3. Giới thiệu từ bằng tình huống hoặc giải thích – Situation/ Explanation
	Thủ thuật này thường áp dụng cho dạy từ ở bài đọc giúp các em có khả năng đoán nghĩa của từ trong câu, từ đó hiểu được nội dung của bài đọc.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu phần 4. Read and tick (Unit 18: What’s your phone number ?- Lesson 3) 
Muốn giới thiệu từ relax và enjoy the scenery, giáo viên hỏi học sinh: Tại sao các em lại thích đi dã ngoại/ đi chơi ? (HS: để được chơi, thư giãn, để ngắm cảnh đẹp,) Sau đó, tôi sẽ chốt câu trả lời đúng nhất.
Ngoài những thủ thuật trên chúng ta có thể giới thiệu trực tiếp từ vựng, dịch nghĩa của từ hoặc giới thiệu từ bằng cách lấy ví dụ, sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Nhưng những cách này thường khô khan và không gây được hứng thú cho học sinh nên hiệu quả đạt được là không cao.
4. Vận dụng linh hoạt một số phương pháp giúp học sinh củng cố và ghi nhớ từ vựng
Sau khi thực hiện các bước giới thiệu từ, dạy từ, giúp học sinh biết cách phát âm, sử dụng từ thì công đoạn quan trọng nhất theo bản thân tôi đó là giúp các em củng cố từ và ghi nhớ từ để có thể sử dụng trong các tình huống giao tiếp. Để thực hiện công đoạn này, tôi thường áp dụng những cách sau:
4.1. Sử dụng trò chơi - Game
Nói đến trò chơi thì chúng ta không thể không biết tới vai trò và tầm quan trọng của nó trong dạy học môn Tiếng Anh, đặc biệt là trong việc dạy từ vựng. Trò chơi giúp tạo không khí thoải mái, kích thích sự hứng thú, giảm áp lực trong qua trình học, phù hợp với tâm lí của học sinh tiểu học. Thông qua trò chơi, học sinh có thể củng cố, ôn tập và ghi nhớ các từ vựng dễ dàng hơn đồng thời củng cố kĩ năng nói và giao tiếp. 
Dưới đây là một số trò chơi tôi thường áp dụng trong quá trình dạy từ vựng:
a) Pass the ball
Đối với trò chơi này, bất cứ học sinh nào cũng phải chuẩn bị để nói vì quả bóng có thể dừng lại ở bất kì bạn nào. Trò chơi giúp rèn kĩ năng nói và kích thích tính tự giác của học sinh.
Cách chơi: Học sinh ngồi hoặc đứng thành hình tròn hoặc có thể ngồi theo vị trí của lớp học. Giáo viên sẽ bật một bài nhạc / bài hát và học sinh bắt đầu chuyền bóng theo vòng / hàng. Khi nhạc dừng lại em nào đang cầm quả bóng thì phải nói một từ trong chủ đề giáo viên yêu cầu. Nếu nói đúng thì tiếp tục chơi nếu không sẽ bị loại và sẽ bị phạt khi trò chơi kết thúc. Cứ như thế cho đến khi hết bài nhạc và giáo viên sẽ đưa ra hình phạt đối với các bạn chưa trả lời được như hát một bài hát bằng tiếng Anh hoặc nhảy điệu bộ theo bài hát.
Ví dụ: Sau khi dạy Unit 12: What does your father do ?- Lesson 1. Tôi tổ chức trò chơi Pass the ball với chủ đề là “nghề nghiệp”. Học sinh vừa nghe nhạc vừa chuyền bóng. Khi đoạn nhạc dừng, quả bóng đến tay ai thì người đó nói các từ về nghề nghiệp như: farmer, teacher, nurse, driver, factory worker. Tôi cho học sinh chơi đến khi học sinh nói được hết các từ hoặc kiểm tra được nhiều em.
Hình 4: Học sinh lớp 4B đang chơi trò chơi “Pa

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_tu_vung_trong_mon_tieng_anh_cho_ho.doc