SKKN Kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong phân môn Tập đọc

SKKN Kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong phân môn Tập đọc

 Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt

động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đựơc thể hiện trong

bốn dạng hoạt động, tương ứng là bốn kĩ năng cơ bản : nghe, nói, đọc, viết .

Trong các phân môn của chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, Tập đọc là phân

môn có vị trí đặc biệt quan trọng vì nó mang tính tích hợp cao trong việc rèn

luyện các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết cho học sinh. Đồng thời cũng mang tính

tích hợp cao về kiến thức ở các môn học khác.

 Mặt khác, những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá khoa học những tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn cũng đựợc ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có “hạnh phúc” đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại .

 Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần.Từ đây, họ biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, quan hệ xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên ngoài, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm văn chương con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.

 

doc 19 trang thuychi01 8354
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong phân môn Tập đọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. MỞ ĐẦU
 1.1 Lí do chọn đề tài
 Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đựơc thể hiện trong
bốn dạng hoạt động, tương ứng là bốn kĩ năng cơ bản : nghe, nói, đọc, viết .
Trong các phân môn của chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, Tập đọc là phân
môn có vị trí đặc biệt quan trọng vì nó mang tính tích hợp cao trong việc rèn
luyện các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết cho học sinh. Đồng thời cũng mang tính
tích hợp cao về kiến thức ở các môn học khác.
 Mặt khác, những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá khoa học những tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn cũng đựợc ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có “hạnh phúc” đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại . 
 Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần.Từ đây, họ biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, quan hệ xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên ngoài, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm văn chương con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. 
 Hiện nay cùng với quy luật phát triển ngày càng cao của xã hội, nhu cầu của con người luôn đòi hỏi theo sự phát triển đó. Học Tiếng Việt giúp cho học sinh có kiến thức ham học hỏi sáng tạo chủ động trong học tập và nghiên cứu khoa học . Rèn đọc diễn cảm cho học sinh chính là xây dựng cho các em những cảm xúc lành mạnh thông qua nội dung bài và giá trị nghệ thuật. Đọc diễn cảm còn là phương tiện góp phần giúp học sinh thể hiện được suy nghĩ, tình cảm của mình đối với nội dung văn bản đồng thời nâng cao hiệu quả giao tiếp của các em trong cuộc sống. Từ đó, giáo dục tư tưởng tình cảm tốt đẹp đối với đất nước, con người, xã hội và thiên nhiên, giúp học sinh thêm yêu Tiếng Việt, góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Các em sẽ đáp ứng được những yêu cầu của thời đại mới: Con người hiện đại có quyết tâm, có tư tưởng vững vàng, biết tạo và nắm bắt cơ hội trong cuộc sống .
 Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn Tập đọc nói chung và việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 nói riêng trong giờ Tập đọc, bản thân là giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, tôi luôn trăn trở để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm của mình về vấn đề: “Kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong phân môn Tập đọc” để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh.
 1.2 Mục đích nghiên cứu 
 - Nhằm nâng cao hiệu quả tiết dạy Tập đọc cho học sinh lớp 4
 - Rèn kĩ năng đọc cho các em hay hơn, diễn cảm hơn.
 1.3 Đối tượng nghiên cứu
 Toàn bộ học sinh khối 4 trường tiểu học Hải Châu. Thông qua nghiên cứu để tìm ra ưu điểm và nhược điểm trong quá trình tổ chức dạy học của giáo viên lớp 4. Đưa ra các giải pháp giúp thầy và trò phát huy những ưu điểm và khắc phục nhược điểm trong quá trình dạy và học.
 1.4 Phương pháp nghiên cứu
 a) Nghiên cứu tài liệu
 - Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục có liên quan đến nội dung đề tài.
 - Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên và các loại sách tham khảo.
 b) Nghiên cứu thực tế
 - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về các giải pháp nâng cao chất lượng môn tập đọc
 - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học
 - Tổ chức và thực hành thực nghiệm sư phạm
 2. NỘI DUNG
 2.1 Cơ sở lí luận 
 Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của phân môn này là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng đọc: đọc đúng, đọc nhanh ( đọc lưu loát trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu ) và đọc hay(mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm).
 Bốn kĩ năng của đọc đựơc hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Các kĩ năng này đựơc rèn luyện đồng thời và hỗ trợ nhau. Sự hoàn thiện kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ: đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Cũng như khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc đúng. Vì vậy, trong dạy đọc, không thể xem nhẹ hay tách rời bất kì một kĩ năng nào.
 Hơn nữa, nhiệm vụ của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học thực sự trở thành trung tâm văn hoá. Nói cách khác, thông qua việc dạy đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc có ích lợi cho các em suốt cả cuộc đời. Phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường ngắn nhất để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển .
 Vì việc đọc không thể tách rời những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Qua phân môn Tập đọc các em được tiếp xúc với những áng văn, áng thơ hay được chọn lọc dạy trong chương trình. Học sinh được tiếp xúc với thế giới muôn hình, muôn vẻ xung quanh nghệ thuật ngôn từ. Từ đó, làm cho học sinh cảm nhận được vẻ tinh túy của thế giới đó bằng ngôn ngữ Tiếng Việt, bồi dưỡng tâm hồn các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết có tư duy hình ảnh ... Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh .
 Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển . 
 2.2 Thực trạng việc “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4”ở trường Tiểu học Hải Châu hiện nay.
 2.2.1.Về phía giáo viên 
 Nhìn chung, qua việc dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy rằng: Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực đọc văn, đọc thơ vì vậy không làm chủ được các kỹ năng dạy Tập đọc. Thực tế, nhiều giáo viên đọc chưa đúng chính âm, đọc chưa hay, hiểu chưa đầy đủ những điều được đọc từ từ đến câu, đến đoạn và cả nội dung, mục đích thông báo của văn bản. Hơn nữa cách giảng dạy của nhiều giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc nhiều vào sách giáo viên, ít phát huy được tính sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh.
 Mặt khác việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh còn hạn chế, phần lớn giáo viên chỉ quan tâm nhiều đến việc đọc đúng, đọc trôi chảy mà chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc rèn đọc diễn cảm cho các em.
 Bên cạnh đó, giáo viên tiểu học thường dạy nhiều môn trong một buổi học
nên một số tiết dạy giáo viên chuẩn bị bài chưa kĩ. Việc khai thác từ ngữ và các yếu tố nghệ thuật đặc sắc trong bài đọc còn hạn chế, chưa giúp các em cảm thụ đựơc tác phẩm đó qua nghệ thuật ngôn từ .
 Những hạn chế trên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của giờ dạy Tập đọc.
 2.2.2. Về phía học sinh
 Hải Châu là một xã nghèo bãi ngang ven biển của huyện Tĩnh Gia, đời sống
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Đa số các em là con em những gia đình thuần nông nên số phụ huynh có điều kiện và ý thức mua sách báo cho con em mình đọc còn rất ít. Nguồn sách cung cấp chủ yếu cho học sinh là thư viện nhà trường.
 Bên cạnh đó, vốn sống và vốn kiến thức văn học của học sinh vùng thôn quê còn hạn chế, vốn ngôn ngữ của các em còn quá đơn giản, ít ỏi chưa phong phú. Hơn nữa, không ít em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các tác phẩm văn học.
 Một số em có chất giọng kém, ngữ điệu đọc chưa phù hợp và kỹ thuật đọc chưa tốt. Có em đọc ngọng các nguyên âm iê, uô,... do ảnh hưởng của phương ngữ. Một số em có tốc độ đọc chưa đạt yêu cầu mặc dù đã học đến lớp 4. Các em còn thiếu tự tin trong giao tiếp, rụt rè, nhút nhát. Chính vì những khó khăn hạn chế trên nên chất lượng đọc diễn cảm học sinh lớp 4 chưa đạt kết quả như mong muốn. 
 2.2.3. Kết quả của thực trạng.
 Năm học 2015 - 2016, tôi được phân công dạy lớp 4C. Nắm được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm, được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, ngay từ ngày đầu năm học, khi mới nhận lớp tôi đã tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp khắc phục. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
Lớp
Sĩ số
Tên bài đọc
Đọc ngắc ngứ, chưa rõ, lẫn lộn phụ âm
Đọc
trôi chảy
Đọc rõ
Đọc diễn cảm
4C
31
-Người ăn xin
- Mẹ ốm
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
14
45.1
7
22.6
8
25.8
2
6.5
 Qua việc kiểm tra kĩ năng đọc của từng học sinh, tôi nắm bắt được tình hình đọc của lớp mình. Tôi nhận thấy phần đa học sinh đọc mắc lỗi phổ biến như : Phát âm sai ở những tiếng có âm đầu: r, s, tr, những tiếng có nguyên âm iê, uô, những tiếng có thanh hỏi (?), thanh ngã (~). Những em đọc lưu loát thì đọc liến thoắng, ngắt nghỉ câu tuỳ tiện theo thói quen, không thể hiện được cái hay của văn bản. Chính vì thế nội dung của bài đọc không được lột tả. Đây cũng là do các em mới từ lớp 3 lên, các bài Tập đọc lớp 4 thường dài, nhiều văn bản đọc khó. Mặt khác, các em chưa có kĩ năng đọc diễn cảm. Chủ yếu các em đọc theo ý thích của mình.
 Từ thực trạng trên, để rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 một cách có hiệu
quả, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 Kĩ năng đọc thành tiếng được thể hiện và đánh giá trên bốn phẩm chất năng lực đọc là đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là phẩm chất năng lực đọc cao nhất, bao hàm chung các phẩm chất năng lực đọc còn lại. Để dạy đọc diễn cảm cho học sinh một cách có hiệu quả giáo viên phải đi theo trình tự quy trình của các phẩm chất năng lực đọc này. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu năm học tôi đã tiến hành những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm cho học sinh như sau:
 2.3.1. Chuẩn bị thật kĩ cho việc dạy đọc diễn cảm
 a) Sự chuẩn bị của giáo viên. 
 Muốn rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, trước hết giáo viên phải có giọng đọc mẫu chuẩn, hay, có sức cuốn hút với học sinh. Theo tôi, người giáo viên không thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà mình không có, không thể gặt hái được những gì mà chúng ta không có khả năng gieo trồng. Đặc biệt, giáo viên Tiểu học là người thầy đầu tiên đặt nền móng, trang bị cho trẻ em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hóa của lời. Giáo viên là người có nhiệm vụ đem đến cho học sinh mẫu hình đẹp nhất về mặt âm thanh của tiếng nói dân tộc. Vì thế, giáo viên phải coi trọng đọc mẫu, thường xuyên có ý thức luyện đọc. Giáo viên có thể sử dụng máy ghi âm ghi lại giọng đọc của mình, điều này giúp giáo viên phát hiện các nhược điểm để tự mình điểu chỉnh giọng đọc ngày càng hay hơn, cuốn hút học sinh cùng hòa mình vào tác phẩm văn học để thấy được tâm tư, tình cảm của tác giả gửi gắm trong bài đọc .
 Bên cạnh đó, cần tìm hiểu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn, nắm vững nội dung bài, hiểu rõ ý đồ của người biên soạn để chủ động, sáng tạo, ứng xử linh hoạt với từng đối tượng học sinh. Tiếp theo, tôi giới thiệu cấu tạo chương trình môn Tập đọc đề các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn, bài thơ theo từng chủ điểm. Hướng dẫn mỗi em có một quyển sổ để ghi những câu, những đoạn, bài văn, bài thơ hay, có giá trị về nội dung và nghệ thuật. 
 Ngoài ra, giáo viên phải dự tính được các lỗi mà học sinh lớp mình thường mắc phải để có biện pháp sữa chữa kịp thời, khéo léo, tạo bầu không khí sôi nổi, kích thích hứng thú học tập và nâng cao tính tự giác của học sinh.
 b) Chuẩn bị tâm thế đọc cho học sinh.
 Để luyện đọc cho học sinh có hiệu quả trước tiên tôi giúp học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc, học sinh phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30- 35cm, cổ và đầu thẳng, thở chậm, sâu để lấy hơi. Khi đứng lên đọc phải bình tĩnh, tự tin đứng dậy không hấp tấp đọc ngay để có thời gian tạo tâm thế. Thỉnh thoảng, tôi gọi học sinh lên bảng đọc để đối diện với tất cả các bạn, tạo cho học sinh tự tin, đồng thời tôi sửa luôn tư thế đọc cho học sinh: vừa đàng hoàng, thoải mái, sách mở rộng và cầm bằng hai tay.
 Hơn thế nữa, đọc thành tiếng khác đọc thầm ở chỗ nó không chỉ là hoạt động tiếp nhận cho mình mà còn là hoạt động nhằm cho người khác tiếp nhận được văn bản giống mình. Khi đọc thành tiếng, học sinh phải hiểu rằng mình không chỉ đọc cho mình, cho cô giáo nghe mà còn phải đọc cho cả lớp cùng nghe. Vì vậy, nếu học sinh đọc quá nhỏ, tôi tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Muốn đọc to, học sinh phải biết cách nâng cao giọng hơn, biết cách thở sâu và lấy hơi ở những chỗ ngắt nghỉ khi đọc. Nhưng đọc to không có nghĩa là đọc quá to và gào lên. Nếu học sinh đọc chưa đúng yêu cầu tôi đọc mẫu để học sinh nhận rõ độ lớn của giọng như thế nào là vừa phải. 
 Mặt khác, trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 2.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo
 Đây là một khâu quan trọng trong các bước lên lớp của giờ Tập đọc và đây chính là cơ sở để đọc diễn cảm tốt. Vì thế, tôi đặc biệt chú ý làm tốt khâu luyện đọc đúng. Đọc đúng là cách phát âm thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là phải đọc đúng chính âm, không đọc theo cách phát âm địa phương vì phát âm địa phương sẽ có chỗ sai với âm chuẩn.
 Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, thanh (đúng các âm vị), đọc đúng trọng âm, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu)
Đọc đúng chính âm.
Tùy thuộc vào phương ngữ, giáo viên chọn nội dung thích hợp để học sinh
thể hiện chính xác các âm vị tiếng Việt bao gồm các phụ âm đầu, vần và các thanh. Giáo viên nắm chắc các biện pháp sửa lỗi gồm: biện pháp luyện theo mẫu, biện pháp cấu âm, biện pháp luyện âm đúng qua âm trung gian. Tùy thuộc vào âm, thanh sai lạc, tùy thuộc vào học sinh mà giáo viên lựa chọn biện pháp thích hợp hoặc phối kết hợp nhiều biện pháp cùng một lúc. Ở trường Tiểu học Hải Châu chủ yếu học sinh lẫn lộn phụ âm đầu r/s và thanh ?/~. Vì thế, tôi đã hướng dẫn các em đọc đúng như sau:
 Để luyện đọc đúng cho học sinh có hiệu quả, trước khi lên lớp, tôi thường đọc kỹ bài đọc, dự tính các lỗi học sinh hay mắc và phương án sửa lỗi, ưu tiên đối với các tiếng, từ khó, tôi giúp học sinh phân tích cấu tạo tiếng, tìm ra lỗi học sinh phát âm sai ở âm hay vần, thanh Tôi đọc mẫu các tiếng, từ này cho học sinh đọc theo. Nếu học sinh vẫn đọc sai, tôi mô phỏng cách phát âm.
 Ví dụ:
- Đọc đúng các phụ âm: r, s: Uốn đầu lưỡi về phía vòm hơi thoát ra rất mạnh. Gặp tiếng có âm tr: Đầu lưỡi uốn chạm vào vòm cứng, bật ra. Nếu đọc những tiếng có âm đầu lưỡi cong lên chạm lợi, hơi đi ra phía hai bên rìa lưỡi xát khe
- Khi đọc các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã thì phải thì cần qua các bước sau:
+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh, ví dụ:
 Thanh hỏi: sỏi, thỏi, gỏi 
 Thanh ngã: bã, đã, giã
+ Sau đó, chắp tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh
 Thanh hỏi: thảo, phải, kẻo ( âm tiết nửa mở)
 Thanh ngã: ngõ, khẽ, cũ ( âm tiết mở)
+ Cuối cùng, chắp bất kì âm đầu, các vần với các thanh.
 Sau khi phân tích và mô phỏng cách phát âm tôi thấy học sinh phát âm chính xác hơn đúng hơn
 b) Đọc đúng chỗ ngắt giọng (Ngắt giọng lôgíc)
 Khi luyện đọc câu, tôi giúp học sinh dựa vào các dấu hiệu: trên văn bản có dấu chấm câu phải “nghỉ hơi”, dấu phẩy thì “ngắt hơi”. Sau dấu chấm nghỉ hơi lâu hơn hai lần so với chỗ ngừng sau dấu phẩy. Sau dấu chấm xuống dòng phải nghỉ lâu gấp đôi so với chỗ nghỉ sau dấu chấm. Nói như thế để nhấn mạnh rằng thời gian dùng sau mỗi dấu câu là khác nhau. Thời gian ngừng sau dấu phẩy không phải lúc nào cũng bằng nhau:
 + Dấu phẩy phân cách cách các ý trong câu ngừng lâu hơn dấu phẩy phân cách các từ hoặc cụm từ. 
 + Dấu phẩy phân cách các bộ phận đẳng lập có tính chất liệt kê ngắn chỉ nên
ngắt hơi ngắn, nhẹ, nếu không sẽ tạo ra cách đọc nhấn vào từng tiếng nghe 
không tự nhiên.
 Ví dụ : Không ngừng quá lâu sau dấu phẩy trong câu sau: 
 “Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận” ( Đường đi Sa Pa – Tiếng Việt 4, tập 2, trang102 )
 Chỗ ngắt giọng phản ánh các quan hệ ngữ pháp, các quan hệ ngữ pháp này có lúc được biểu hiện trên chữ viết bằng các dấu câu nhưng có lúc không được biểu hiện gì trên chữ viết. Lúc này, muốn đọc đúng chỗ ngắt giọng phải dựa vào các quan hệ ngữ pháp, dựa vào nghĩa của câu.
 Ngoài việc tách các vế câu như trên cần đặt câu này trong mối tương quan với các câu phía trước “ Trăng đêm nay sáng quá! Trăng mai còn sáng hơn”. “ Trăng đêm nay sáng quá!” dẫn đến “ Anh mừng” . “Trăng mai còn sáng hơn” nên anh có quyền và tràn đầy lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, của thế hệ trẻ “ và anh mong ước,”
 Với bài thơ, học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ một cách tự nhiên, nếu không được lưu ý về nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực nghĩa, học sinh sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối về mặt âm thanh đọc từng câu thơ. Với thơ 4 tiếng, các em sẽ ngắt nhịp 2/2, với thơ 5 tiếng, các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2, với thơ 7 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 3/4, 4/3 hoặc 2/2/3, thơ lục bát sẽ được ngắt theo nhịp chẵn 2/2/2. Có những bài thơ ngắt nhịp không theo các qui luật trên. Các em sẽ mắc lỗi ngắt nhịp do áp lực của nhạc thơ.
 Ví dụ: Bài “Truyện cổ nước mình” (Tiếng Việt 4, tập1, trang 19 ) Các em ngắt nhịp sai ở các câu như:
 - Vừa nhân hậu lại/ tuyệt vời sâu xa.
 - Con sông /chảy có rặng dừa nghiêng soi. 
 Gặp những trường hợp này, tôi phải kiên trì hướng dẫn học sinh cách ngắt nhịp đúng như sau:
- Vừa nhân hậu/ lại tuyệt vời sâu xa.
 - Con sông chảy/ có rặng dừa nghiêng soi. 
 Trong các giờ Tập đọc, tôi đều để học sinh tự tìm nhịp ngắt của các câu thơ, câu văn dài. Nếu gặp những câu khó, tôi đọc mẫu cho học sinh nghe và học sinh tự phát hiện chỗ ngắt nghỉ đúng trong các câu này. Sau đó học sinh đọc cá nhân. Cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh đoạn, cả bài. 
 c) Đọc đúng kiểu câu
 Đối với học sinh đọc lên xuống giọng tùy tiện, để khắc phục, tôi phải 
thật tốt cách đọc các kiểu câu:
 Câu kể ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu.
 Câu hỏi ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu.
 Câu kể có dấu chấm lửng khi đọc phải kéo dài giọng.
 Câu cảm, cầu cầu khiến ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng ở cuối câu
 Ví dụ: 
 Trong bài “Chú Đất Nung” (Tiếng Việt lớp 4, tập1, trang 138), tôi hướng dẫn học sinh cách đọc các loại câu này như sau:
 Chép đoạn văn vào bảng phụ. Sau đó hỏi học sinh trong đoạn văn trên những câu văn nào là câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng phấn mầu ghi kí hiệu lên giọng (&), xuống giọng(m ) ở cuối mỗi loại câu
 Ông Hòn Rấm cười bảo:m (câu kể) 
 - Sao chú mày nhát thế ? & (câu hỏi).Đất có thể nung trong lửa cơ mà ! & (câu cảm)
 Chú bé đất ngạc nhiên hỏi lại: m (câu kể)
 - Nung ấy ạ ? & ( câu hỏi)
 - Chứ sao ? &. Đã là người thì phải dám xông pha, làm đựơc nhiều việc có ích. m (câu kể) 
Nghe thế, chú bé Đất Nung không thấy sợ nữa.m (câu kể ). Chú vui vẻ bảo:m (câu kể) 
 - Nào, nung thì nung! & (câu cảm)
 Từ đấy chú thành đất nung. m (câu kể)
 Tuy nhiên tôi cũng lưu ý học sinh không nên cường điệu khi thể hiện ngữ điệu đọc (quá mạnh, quá yếu, quá cao hay quá thấp) gây 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_dien_cam_cho_hoc_sinh_lop_4.doc