Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh kỹ năng trình bày trên mô hình trực quan để học chủ đề cấu trúc tế bào trong Sinh 10

Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh kỹ năng trình bày trên mô hình trực quan để học chủ đề cấu trúc tế bào trong Sinh 10

Trong thời đại ngày nay, nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo,
mạng internet…rất phong phú, chúng ta đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông
của thế giới. Với khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng tăng, nội dung kiến thức
trong chương trình phổ thông cũng tăng lên, nên chúng ta không thể hi vọng trong một
thời gian nhất định ở trường phổ thông giáo viên có thể cung cấp cho học sinh cả một
kho tàng tri thức mà loài người đã tích lũy được, tuy đã được chọn lọc. Nhiệm vụ của
giáo viên hiện nay không chỉ cung cấp cho học sinh tri thức mà quan trọng là cung cấp
cho học sinh phương pháp học, rèn cho các em hệ thống kỹ năng nhận thức để học sinh
chủ động giải quyết những vấn đề trong học tập cũng như trong thực tiễn, qua đó giúp
phát triển năng lực và thái độ của người học.

Từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường,
tôi thấy rằng trong công tác giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh,
chúng ta cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ để lĩnh hội
tri thức, và giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri
thức của thế giới. Để thực hiện được mục tiêu này thì cần phải đổi mới giáo dục toàn
diện, trên mọi mặt từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện
dạy học...Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là trọng tâm và có ý nghĩa
chiến lược. Trong các PPDH tích cực, việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho HS
là vô cùng quan trọng, đặc biệt là năng lực vận dụng kiến thức sinh học để giải quyết các
vấn đề thực tiễn, rèn luyện thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá ra những
vấn đề mới.

Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy hiện nay, hầu hết các giáo viên chỉ chú trọng
việc cung cấp kiến thức lí thuyết cho học sinh, rèn luyện kĩ năng làm các bài thi, bài
kiểm tra bằng các câu hỏi lí thuyết, trắc nghiệm ... theo logic, khuôn mẫu nên việc rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn đời sống, vào giải quyết các vấn
đề thực tiễn còn chưa được chú trọng, học sinh chưa biết cách làm việc độc lập một cách
khoa học để lĩnh hội tri thức, chưa được hướng dẫn cũng như làm quen với các phương
pháp nghiên cứu khoa học, áp dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn.

pdf 42 trang Mai Loan 03/06/2024 3744
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh kỹ năng trình bày trên mô hình trực quan để học chủ đề cấu trúc tế bào trong Sinh 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm học 2020 - 2021 
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP CẦN THƠ 
TRƯỜNG THPT TRẦN ĐẠI NGHĨA 
------ š & › ------ 
Đề tài: HƯỚNG DẪN HỌC SINH KỸ NĂNG TRÌNH BÀY 
TRÊN MÔ HÌNH TRỰC QUAN ĐỂ HỌC CHỦ ĐỀ 
CẤU TRÚC TẾ BÀO TRONG SINH 10 
Giáo viên: BÙI THỊ TUYẾT MAI 
Tổ chuyên môn: HÓA – SINH - CN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2 
MỤC LỤC 
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3 
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................................................................... 3 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 4 
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................................. 4 
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 4 
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................................ 5 
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................................. 5 
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................................................................................ 6 
1. Thực trạng nhận thức, hứng thú của học sinh đối với môn Sinh học: ......................... 6 
2. Thực trạng về việc sử dụng mô hình trực quan sinh học .............................................. 8 
3. Thực trạng về việc hướng dẫn học sinh làm mô hình sinh học: ................................... 8 
4. Sự cần thiết của đề tài ....................................................................................................... 8 
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 9 
1. Tổng quan nghiên cứu về năng lực tự học ...................................................................... 9 
2. Vận dụng phương pháp mô hình vào dạy học Sinh học .............................................. 11 
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG GIẢI PHÁP VÀO THỰC TẾ ............................... 30 
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 35 
1. Kết quả đạt được: ................................................................................................................ 35 
2. Những tồn tại cần khắc phục: ............................................................................................ 35 
3. Hướng phổ biến, áp dụng đề tài: ....................................................................................... 35 
3 
PHẦN MỞ ĐẦU 
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo, 
mạng internetrất phong phú, chúng ta đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông 
của thế giới. Với khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng tăng, nội dung kiến thức 
trong chương trình phổ thông cũng tăng lên, nên chúng ta không thể hi vọng trong một 
thời gian nhất định ở trường phổ thông giáo viên có thể cung cấp cho học sinh cả một 
kho tàng tri thức mà loài người đã tích lũy được, tuy đã được chọn lọc. Nhiệm vụ của 
giáo viên hiện nay không chỉ cung cấp cho học sinh tri thức mà quan trọng là cung cấp 
cho học sinh phương pháp học, rèn cho các em hệ thống kỹ năng nhận thức để học sinh 
chủ động giải quyết những vấn đề trong học tập cũng như trong thực tiễn, qua đó giúp 
phát triển năng lực và thái độ của người học. 
Từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường, 
tôi thấy rằng trong công tác giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh, 
chúng ta cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ để lĩnh hội 
tri thức, và giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri 
thức của thế giới. Để thực hiện được mục tiêu này thì cần phải đổi mới giáo dục toàn 
diện, trên mọi mặt từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện 
dạy học...Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là trọng tâm và có ý nghĩa 
chiến lược. Trong các PPDH tích cực, việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho HS 
là vô cùng quan trọng, đặc biệt là năng lực vận dụng kiến thức sinh học để giải quyết các 
vấn đề thực tiễn, rèn luyện thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá ra những 
vấn đề mới. 
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy hiện nay, hầu hết các giáo viên chỉ chú trọng 
việc cung cấp kiến thức lí thuyết cho học sinh, rèn luyện kĩ năng làm các bài thi, bài 
kiểm tra bằng các câu hỏi lí thuyết, trắc nghiệm ... theo logic, khuôn mẫu nên việc rèn 
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn đời sống, vào giải quyết các vấn 
đề thực tiễn còn chưa được chú trọng, học sinh chưa biết cách làm việc độc lập một cách 
khoa học để lĩnh hội tri thức, chưa được hướng dẫn cũng như làm quen với các phương 
pháp nghiên cứu khoa học, áp dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn. 
Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại 
những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các 
kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận 
thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo Trong lí luận dạy học, sự thống nhất 
giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo 
cho quá trình dạy học đạt được hiệu quả cao. Nội dung chương trình sinh học giúp các 
em tiếp thu nguồn tri thức sinh học từ đó vận dụng vào thực tiễn đời sống. Và phương 
tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học sinh lĩnh hội tri thức 
một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp học sinh tiếp cận hiện thực khách 
4 
quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy, khả năng 
tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức. Thế nhưng một thiếu sót rất lớn ở trường phổ 
thông hiện nay là bỏ qua hoặc ít sử dụng các đồ dùng trực quan . 
Đặc biệt, trong chương trình Sinh học lớp 10 - THPT, phần sinh học tế bào là một 
phần kiến thức đại cương, nội dung trong mỗi bài học tương đối dài, với rất nhiều kiến 
thức di truyền phần cấp độ tế bào tương đối khó, trừu tượng như là thành phần hóa học 
của tế bào, cấu trúc tế bào, bài tập ADN khiến nhiều học sinh phải “vò đầu bứt tóc” khi 
học. Nhưng nếu nắm vững kiến thức này học sinh không chỉ biết cơ sở chung về tế bào 
học, sự phù hợp giữa cấu trúc và chức năng của các thành phần cấu trúc của tế bào mà 
còn biết vận dụng vào thực tiễn và hiểu sâu hơn các kiến thức sinh học khác, đem lại 
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Việc sử dụng các đồ dùng trực quan trong các 
bài giảng người giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát vật thật, tranh, ảnh, mô hình 
....với nắm kiến thức bài học, nhằm nâng cao sự nhận thức của học sinh gắn lý luận với 
thực tiễn góp phần giải quyết thắc mắc tò mò cho các em làm cho giờ sinh học trở lên 
sinh động hơn dẫn tới chất lượng học tập cao . 
Trong thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay theo hướng phát huy tính 
tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh. Nó góp phần làm cho tiết học trên lớp đạt 
hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, việc hướng dẫn học sinh định hướng để xây dựng và củng 
cố, khắc sâu kiến thức một cách hệ thống bằng mô hình được xem là một hình thức mới 
trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Vì vậy, tôi chọn chủ đề “Hướng dẫn 
học sinh kỹ năng trình bày trên mô hình trực quan để học chủ đề Cấu trúc tế bào 
trong Sinh 10” nhằm nâng cao năng lực chuyên môn bản thân và chất lượng giảng dạy 
trong thời gian tới, giúp học sinh tự tin khi thể hiện kiến thức của mình, tự mô tả hay 
trình bày được cấu trúc và chức năng của các bào quan. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Qua thực tiễn, bằng trải nghiệm bản thân, nhìn lại những việc đã đạt được, tạo động 
lực cho tôi khi làm công tác giảng dạy trong những năm tiếp theo. 
Đúc kết kinh nghiệm trong đề tài, giáo viên có thể áp dụng giúp học sinh tiếp thu 
kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, giảm áp lực trong học tập. 
Giúp học sinh làm được các bài trắc nghiệm nhanh hơn, chính xác hơn từ đó tạo 
được hứng thú cho học sinh với môn học. 
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
- Đối tượng nghiên cứu: Lớp 10A1, 10A3 trường THPT Trần Đại Nghĩa. 
 Lớp 10A2 là lớp đối chứng. 
- Phạm vi nghiên cứu: Năm học 2020 – 2021. 
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Phương pháp thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu. 
- Phương pháp quan sát hoạt động học của học sinh. 
- Phương pháp thực nghiệm. 
- Phương pháp kiểm tra đánh giá tổng hợp. 
5 
PHẦN NỘI DUNG 
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Ý tưởng về mô hình hóa trong dạy học được dề xuất bởi bởi Aristodes C. Barreto từ 
rất sớm. Phương pháp mô hình hóa ra đời dựa trên những thành tựu về khoa học tâm lý, 
khoa học giáo dục, toán học, logic học và dựa trên kĩ thuật hiện đại. Bồi dưỡng cho học 
sinh năng lực phát hiện, đặt và giải quyết vấn đề là mục tiêu của phương pháp mô hình 
nói riêng và phương pháp dạy học tích cực nói chung. 
Do Sinh học là môn học đòi hỏi nhiều tư duy để suy luận và vận dụng thực tiễn, 
kiến thức môn học đa dạng phong phú, đặc biệt là các quá trình về sự sống, các cơ chế 
của quá trình, lượng kiến thức dài, đa phần là mới và khó, ngoài ra còn có nhiều hình ảnh 
và đoạn phim mô tả các quá trình tương đối trừu tượng trong sinh học như cấu trúc và 
chức năng của các bào quan trong tế bào, các giai đoạn trong quá trình quang hợp, hô hấp 
tế bào, diễn biến quá trình nguyên phân, quá trình giảm phân 
Như vậy, trong quá trình dạy và học chúng ta sẽ thường gặp một số khó khăn như 
học sinh sẽ tập trung ghi bài mà không tham gia thảo luận nhóm, hoặc chỉ tập trung thảo 
luận nhóm, trao đổi và quan sát hình ảnh mà không ghi bài. Như vậy, học sinh không thể 
nắm được ý chính của bài để định hướng học tập. Mặt khác, hạn chế của học sinh là chưa 
biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một 
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự 
kiện nổi bật” trong bài học, trong tài liệu tham khảo, hoặc không biết liên tưởng, liên kết 
các kiến thức có liên quan với nhau. Mà để làm một bài kiểm tra đòi hỏi học sinh phải 
đảm bảo được kiến thức trọng tâm, những vấn đề chính và trình bày các vấn đề theo một 
hệ thống logic. Tuy nhiên qua quan sát từ thực tế giảng dạy thì học sinh còn hạn chế 
trong việc tư duy để lập luận và trình bày đầy đủ kiến thức. 
Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế các hoạt 
động của học sinh sao cho các em có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức mới 
dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt động học là người học 
hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học không chủ động tự giác, không có 
phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực của người giáo viên chỉ đem lại những kết quả hạn 
chế. Trong đó chương trình sinh học 10 các bài học được cấu trúc theo hệ thống nội dung 
mang tính khái quát, trừu tượng ở cấp độ tế bào, từ cấu trúc của các thành phần tế bào 
dẫn đến sự phù hợp với chức năng của nó. 
Và phương pháp dạy học truyền thống vẫn là phương pháp được sử dụng phổ 
biến, giáo viên hỏi học sinh theo hệ thống của SGK, học sinh có thể trả lời hoặc không 
trả lời, vì giáo viên sẽ cung cấp kiến thức đó cho học sinh, khả năng vận dụng kiến thức 
để giải quyết các tình huống thực tiễn còn ít. Với lượng kiến thức phong phú với nhiều 
quá trình và cơ chế như môn Sinh học, để học sinh có thể nắm vững và đầy đủ kiến thức 
thì rất khó, nên việc hướng dẫn học sinh có thể hệ thống kiến thức bằng sơ đồ, qua đó 
6 
học sinh sẽ nhìn được tổng thể kiến thức một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, rút ngắn được 
thời gian ôn tập củng cố và ghi nhớ bài nhanh hơn. Chính vì vậy hiệu quả tiết học chưa 
cao, đặc biệt là không hình thành được các năng lực cho học sinh như năng lực hợp tác 
nhóm, năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực vận dụng thực tiễn... 
Trong quá trình giảng dạy hầu hết các giáo viên thường chỉ tập trung vào các kiến thức 
và kĩ năng cần nắm trong bài để phục vụ cho kiểm tra, cho thi cử mà chưa thực sự quan 
tâm đến các biện pháp nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học liên hệ vào 
thực tiễn cho học sinh. 
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 
1. Thực trạng nhận thức, hứng thú của học sinh đối với môn Sinh học: 
1.1. Tiến hành khảo sát thực trạng về mức độ hứng thú và tính tích cực trong 
học tập môn Sinh học tại trường THPT Trần Đại Nghĩa: 
Để khảo sát, nghiên cứu hứng thú học tập môn Sinh học THPT, đầu năm học tôi đã 
tiến hành lập phiếu điều tra, gồm một số câu hỏi ( Phụ lục 1 ) tại lớp 10A1 (38 hs) và lớp 
10A3 (39 hs) Trường THPT Trần Đại Nghĩa. 
Sau khi thu thập số liệu, tôi thu được kết quả như sau: 
Câu 1. Để xem học sinh có quan tâm đến môn Sinh học, tôi đặt câu hỏi: " Em có 
thích học môn Sinh học không? " 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Rất thích. 47 61 
B Không thích lắm. 28 36 
C Không thích. 2 3 
F Qua bảng số liệu thu thập: Đối với môn Sinh học thì tỷ lệ cao nhất là 61% ý kiến 
"rất thích", tiếp đến là "không thích lắm" 36%. Điều này thể hiện sự quan tâm của học 
sinh về môn sinh học cũng khá cao. Tuy cũng còn điều đáng ngại là tỷ lệ không thích là 
39%. 
F Qua khảo sát thấy rằng các em đã có sự thích thú với môn Sinh học, nhưng chưa 
thật sự thích hẳn. 
Câu 2. Để biết mức độ khó hay dễ của môn Sinh học theo đánh giá của HS, tôi 
đặt câu hỏi: "Em thấy môn Sinh học khó hay dễ so với các môn học khác" ? 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Rất khó. 10 13 
B Rất dễ. 5 6.5 
C Bình thường. 62 80.5 
F Qua số liệu trên ta thấy rằng: Theo các em HS đánh giá thì môn Sinh học không 
phải là quá khó với môn học khác, bởi tỷ lệ ý kiến "rất khó" chỉ có 13%, nhưng cũng 
không phải là môn học quá dễ 6.5%, cao nhất là 80.5% ý kiến "bình thường". 
Câu 3. Để biết học sinh có quan tâm đến nội dung bài học, tôi đặt câu hỏi: Em có 
chuẩn bị bài trước khi tới lớp không? 
7 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Chuẩn bị kĩ bài. 38 49.4 
B Thỉnh thoảng. 20 26 
C Không chuẩn bị bài. 2 2.6 
D Chỉ đọc sơ qua. 17 22 
F Với kết quả thu thập 49.4% HS chuẩn bị kỹ bài trước khi đến lớp đối với môn 
sinh học. Điều này có nghĩa : Các em đã có ý thức tự giác, tự lực nghiên cứu, chuẩn bị 
bài ở nhà. Các em đã nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài, chuẩn bị kiến 
thức để có thể tiếp thu kiến thức mới tốt hơn, ôn và nhớ lại kiến thức đã học, phục vụ cho 
các đơn vị bài học tiếp theo. 
F Tỷ lệ "Thỉnh thoảng" chuẩn bị bài cũ là 26%. Có nghĩa những em này bình 
thường tới lớp không chuẩn bị bài, hoặc là các em đã hiểu đủ bài học hoặc là chưa hiểu. 
Nếu hiểu đủ bài học nhưng không chuẩn bị bài thì ý thức của các em trong học tập là 
không cao, có thể các em chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài. Các ý kiến 
này có thể gây khó khăn cho giáo viên khi giảng bài. 
F Tỷ lệ chỉ đọc sơ qua 22% và không chuẩn bị bài 2.6% sẽ gây chênh lệch trong 
tương quan giữa dạy và học. 
Câu 4. Để xem mức độ tiếp thu bài học của học sinh, tôi đặt câu hỏi: Khi giáo 
viên giảng bài, em có thấy hiểu bài không? 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Em hiểu tất cả các nội dung bài học. 48 62.3 
B Trên lớp em thấy khó hiểu, về nhà đọc thêm SGK thì em đã hiểu. 20 26 
C Em hiểu lý thuyết nhưng chưa áp dụng được để trả lời câu hỏi. 9 11.7 
D Không hiểu gì cả. 0 0 
F Với các mức độ ý kiến trên thì việc hiểu được tất cả các nội dung bài học chiếm 
62.3% là khá ổn. 
F Tỷ lệ 26% phương án B cho thấy trên lớp các em thấy khó hiểu nhưng về nhà 
đọc thêm SGK thì đã hiểu thêm. Điều này nói lên rằng các em đã có sự đầu tư tìm hiểu 
môn học, có sự tự giác tìm tòi kiến thức để hiểu . 
F Nhưng điều đặc biệt quan tâm và đáng chú ý: 11.7% các em nhận định: Hiểu lý 
thuyết nhưng không áp dụng được để trả lời câu hỏi. Điều này chứng tỏ các em cần 
phương pháp ghi nhớ tốt hơn để có thể áp dụng vào việc giải đề kiểm tra. 
Câu 5. Để quan tâm đến sự hứng thú của học sinh khi học sinh học tế bào, tôi 
đặt câu hỏi: Em cảm thấy thế nào khi học về sinh học tế bào? 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Khó hiểu do không nhìn thấy thực tế. 42 54.5 
B Dễ hiểu và tưởng tượng khi học. 25 32.5 
C Thấy chán do không biết gì. 10 13 
D Không hiểu gì cả. 0 0 
8 
F Khảo sát sau khi các em học xong phần Thành phần hóa học của tế bào, tôi thấy 
rằng với các mức độ ý kiến trên thì việc các em khó hiểu do không nhìn thấy thực tế 
chiếm 54.5% là không ổn. Điều này nói lên rằng các em cần được học bằng các phương 
pháp mới thông quan hình ảnh trực quan sinh động. 
F Nhưng điều đặc biệt quan tâm là 13% các em nhận định: Thấy chán do không 
biết gì. Điều này chứng tỏ các em cần phương pháp học và ghi nhớ tốt hơn. 
Câu 6. Ngoài ra để tìm hiểu hứng thú ở môn Sinh học của học sinh, tôi đặt câu hỏi: 
"Điều gì ở môn Sinh học khiến em thích thú nhất ?" 
F Đa số các ý kiến khẳng định: "Thích môn Sinh học nhất là được làm các thí 
nghiệm, mô hình trực quan và giải thích được các hiện tượng từ đó". Điều này cho thấy: 
thí nghiệm, mô hình Sinh học có sức thu hút các em, tạo được hứng thú cho các em; thể 
hiện tinh thần hợp tác nhóm trong học tập, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ. 
1.2. Đánh giá chung về kết quả điều tra: 
Thông qua kết quả điều tra và tình hình thực tế khi tham gia trực tiếp giảng dạy 
môn sinh học 10 ở địa phương, đặc biệt là nội dung trong phần cấu trúc tế bào học sinh 
gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức. Qua quá trình giảng dạy và 
tham khảo ý kiến cũng như tiến hành dự giờ tôi nhận thấy rằng đa số giảng dạy theo 
phương pháp thuyết trình, diễn giảng, giải thích minh họa, sử dụng các phương pháp dạy 
học tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh còn chưa nhiều, chưa thường xuyên, đặc 
biệt là phương pháp dạy học có sử dụng các mô hình trực quan, tình huống vận dụng kiến 
thức vào thực tiễn. 
2. Thực trạng về việc sử dụng mô hình trực quan sinh học 
Giáo viên thể hiện mô hình mẫu bằng tranh ảnh, đoạn phim với đầy đủ các chi tiết 
yêu cầu của SGK nhưng chưa đa dạng. 
Chưa tận dụng tối đa tính năng của mô hình trong dạy học. 
Cần tích cực làm đồ dùng dạy học bổ sung vào những tiết mà dụng cụ ở trường 
không có. 
3. Thực trạng về việc hướng dẫn học sinh làm mô hình sinh học: 
Tôi tiếp tục tiến hành điều tra thông qua các câu hỏi tiếp theo như sau: 
Câu 7. Để nắm được thực trạng việc thực hiện mô hình ở nhà của học sinh, tôi đặt 
câu hỏi: Có khi nào các em làm thí nghiệm hay mô hình Sinh học ở nhà không? 
STT Phương án Số HS Tỷ lệ % 
A Không làm 55 71.4 
B Chỉ làm khi giáo viên yêu cầu 22 28.6 
C Rất thích làm 0 0 
F Từ kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh làm thí nghiệm hay mô hình ở nhà rất thấp, mà 
chỉ làm khi giáo viên yêu cầu ( 28.6% ). Học sinh chưa tích cực trong việc thực hiện các 
thí nghiệm ở nhà, chưa hứng thú, chưa phát hiện cái hay của thí nghiệm hay mô hình này. 
4. Sự cần thiết của đề tài 
9 
Từ những thực trạng nêu trên cùng với vai trò đặc biệt của việc thực hiện mô hình ở 
nhà, tôi thiết nghĩ, là một giáo viên, chúng ta phải làm thế nào để phát huy tối đa vai trò 
của thí nghiệm, mô hình sinh học ở nhà của học sinh, giúp học sinh tích cực chủ động, 
sáng tạo hơn. Từ đó làm học sinh hứng thú, say mê học môn sinh học. 
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
1. Tổng quan nghiên cứu về năng lực tự học 
1.1. Chỉ đạo của các cấp về đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng 
lực học sinh 
1.1.1. Bộ Giáo dục và đào tạo 
Từ những định hướng của Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết số 29-NQ/TW yêu 
cầu phải đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng 
tạo của các cơ sở giáo dục. Đa dạng hoá nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của 
các cấp học và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người; chương trình giá

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_ky_nang_trinh_bay_t.pdf