Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học văn bản truyền thuyết trong chương trình Ngữ văn Lớp 6

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học văn bản truyền thuyết trong chương trình Ngữ văn Lớp 6

- Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển trong thời đại anh hùng Việt Nam, thời đại mà những yếu tố xã hội – lịch sử của nó mang đặc trưng chung của thời đại anh hùng trong lịch sử nhân loại: Đó là thời kỳ con người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên cũng được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Ở Việt Nam, nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử, sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí mà đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn.

- Việc sử dụng công cụ kim loại được coi như một cuộc cách mạng kỹ thuật. Đồ đồng cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, thể hiện trình độ cao về kỹ thuật chế tác và năng khiếu thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó như những chiếc rìu, lưỡi cày đồng, xẻng, cuốc đồng, dao gặt… Công cụ sản xuất vô cùng phong phú và tiến bộ đó dẫn đến thành quả lao động được nâng cao, đời sống con người được cải thiện. Bên cạnh nhu cầu ăn, ở, người ta đã có nhu cầu thẩm mĩ, không chỉ là ăn no mặc ấm mà còn là ăn ngon, mặc đẹp, và sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần nào khám phá một số bí ẩn của thiên nhiên để phục vụ cộng đồng: sản xuất một số cây trồng theo mùa vụ, tìm ra một số giống cây quý, nhiều giống lúa nước và chế biến một số món ăn từ gạo…

- Nhu cầu mở rộng thêm các vùng định cư và sản xuất, khai thác thêm các thị trường mới để trao đổi sản phẩm, khám phá đất hoang… ngày càng dâng cao trong cộng đồng. Chiến tranh giữa các bộ tộc xảy ra liên miên nhằm xâm lấn đất đai, mở rộng địa bàn, thôn tính lẫn nhau (dẫn đến sự hình thành nhà nước đầu tiên). Các bộ lạc có xu hướng: hoặc là thâu tóm lẫn nhau hoặc đoàn kết để chống lại các bộ lạc lớn mạnh khác.

doc 21 trang Mai Loan 25/07/2025 350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học văn bản truyền thuyết trong chương trình Ngữ văn Lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO KẾT QUẢ
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
 1. Lời giới thiệu. 
 Năm học 2002 – 2003 Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thực hiện cải 
cách giáo dục, do vậy việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa được triển 
khai đại trà bắt đầu từ lớp 6 đến nay vẫn tiếp tục được thực hiện.
 Đối với môn Ngữ văn việc đổi mới được thực hiện dựa trên nguyên tắc tích 
hợp 3 phân môn Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Có nghĩa là 3 phân môn được 
biên soạn trong một quyển sách với cơ cấu theo từng bài có đầy đủ cả 3 phần 
Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Cấu trúc đó cho thấy sự nhấn mạnh những điểm 
đồng quy về kiến thức, kĩ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích 
hợp trong tổ chức nội dung dạy học và xác định phương pháp dạy học cho từng 
bài. Yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn bản của mỗi bài học.
 Để đảm bảo nguyên tắc tích hợp, việc xây dựng chương trình lấy kiểu văn 
bản làm cơ sở, sách giáo khoa Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 đưa vào 6 kiểu văn 
bản khác nhau chứ không xây dựng chương trình theo tiến trình lịch sử văn học 
như trước. Song việc đổi mới vẫn không phủ nhận vai trò của những bài dạy tác 
phẩm văn học của phân môn Văn.
 Phần văn bản là tiết mở đầu của một tuần học (4 tiết) với lớp 6, 7, 8 và (5 tiết) 
với lớp 9 để định hướng nội dung tích hợp 3 phân môn trong bài. Tuy vậy phân 
môn văn học theo tinh thần tích hợp như trên vẫn phải đảm bảo đúng đặc trưng, 
phải dạy đúng phương pháp của từng thể loại.
 Về mặt phương pháp ta thấy việc xây dựng sách giáo khoa Ngữ văn THCS 
theo nguyên tắc tích hợp kết hợp với đổi mới phương pháp dạy học nên học sinh 
được học với tinh thần tự học sáng tạo: từ chỗ làm quen, tập dượt, làm theo đến 
tự phát hiện, khám phá, sáng tạo dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của giáo viên. Giáo 
viên cần loại bỏ hoàn toàn phương pháp dạy học cũ tức là làm cho học sinh thụ 
động, bắt chước, hoặc dập khuôn theo mẫu sẵn có. Việc dạy học theo phương 
pháp mới phải đạt được đến đích là: “ Học để biết học để suy nghĩ, rèn luyện trí 
thông minh và tối đa hóa việc chuyển tải kiến thức. ” Cụ thể, học qua hành, tăng 
cường cho học sinh thực hành giao tiếp và luyện tập ngôn ngữ bằng nhiều hình 
thức phong phú và thích hợp. Học sinh THCS được học Ngữ văn trên quan điểm 
của lí thuyết giao tiếp, do vậy về phương pháp dạy học phải cố gắng dần dần để 
phương pháp đàm thoại, trao đổi theo nhóm và một số kĩ thuật, phương pháp 
dạy học tích cực trở thành quen thuộc trong mỗi giờ học. Theo tinh thần đó, học 
sinh là người chủ động nêu vấn đề, thảo luận, trao đổi với nhau để rút ra kết luận 
về những hiện tượng ngôn ngữ dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Mặt khác giáo 
viên khi giảng dạy cũng cần chú ý vai trò to lớn của môn Ngữ văn với việc phát 
triển toàn diện mọi phẩm chất và năng lực của học sinh THCS. Điều này có 
nghĩa là phải chú trọng tới giá trị và hiệu quả giáo dục của từng ngữ liệu, từng 
văn bản, từng thế mạnh của các cách diễn đạt thể hiện tư tưởng, tình cảm trong 
khi rèn 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
 1 *Nghiên cứu chung về truyện truyền thuyết
 +Thời điểm ra đời của truyền thuyết
 - Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển trong thời đại anh hùng 
Việt Nam, thời đại mà những yếu tố xã hội – lịch sử của nó mang đặc trưng 
chung của thời đại anh hùng trong lịch sử nhân loại: Đó là thời kỳ con người bứt 
ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được 
đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên 
cũng được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Ở 
Việt Nam, nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử, sự khởi đầu 
của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời 
kì văn hoá kim khí mà đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn.
 - Việc sử dụng công cụ kim loại được coi như một cuộc cách mạng kỹ 
thuật. Đồ đồng cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, thể hiện 
trình độ cao về kỹ thuật chế tác và năng khiếu thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó 
như những chiếc rìu, lưỡi cày đồng, xẻng, cuốc đồng, dao gặt Công cụ sản 
xuất vô cùng phong phú và tiến bộ đó dẫn đến thành quả lao động được nâng 
cao, đời sống con người được cải thiện. Bên cạnh nhu cầu ăn, ở, người ta đã có 
nhu cầu thẩm mĩ, không chỉ là ăn no mặc ấm mà còn là ăn ngon, mặc đẹp, và 
sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần nào khám phá một số bí ẩn của thiên nhiên 
để phục vụ cộng đồng: sản xuất một số cây trồng theo mùa vụ, tìm ra một số 
giống cây quý, nhiều giống lúa nước và chế biến một số món ăn từ gạo
 - Nhu cầu mở rộng thêm các vùng định cư và sản xuất, khai thác thêm các 
thị trường mới để trao đổi sản phẩm, khám phá đất hoang ngày càng dâng cao 
trong cộng đồng. Chiến tranh giữa các bộ tộc xảy ra liên miên nhằm xâm lấn 
đất đai, mở rộng địa bàn, thôn tính lẫn nhau (dẫn đến sự hình thành nhà nước 
đầu tiên). Các bộ lạc có xu hướng: hoặc là thâu tóm lẫn nhau hoặc đoàn kết để 
chống lại các bộ lạc lớn mạnh khác.
 - Hoàn cảnh đó đó tạo nên một Không khí hào hùng cho thời đại mà 
Ăngnghen nhận xét là: “thời đại mà mỗi thành viên nam giới của bộ lạc đến tuổi 
thành niên đều là những chiến binh”. Các thành viên trong cộng đồng có điều 
kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng của mình, ý thức về lịch sử, dân tộc, chủ quyền 
lãnh thổ được nuôi dưỡng. Xuất hiện các cá nhân anh hùng và tập thể anh hùng. 
Và truyền thuyết ra đời nhằm tôn vinh sức mạnh, phẩm chất người anh hùng 
của mình, cộng đồng của mình.
 Tóm lại: Thời đại truyền thuyết: Đó là bước tiến vọt từ đồ đá sang đồ 
đồng- sắt, từ hái lượm săn bắt sang trồng trọt lúa nước và định cư nông nghiệp, 
từ lối sống thô sơ đến sự ra đời của “nghề khéo” và “của ngon vật lạ”, từ mẫu 
hệ sang phụ quyền, từ bộ lạc sang liên minh bộ tộc và nhà nước phôi thai, tóm 
lại từ dã man sang văn minh, ở trên vùng châu thổ sông Hồng . . Và nếu như 
thần thoại ra đời từ nhu cầu nhận thức của người nguyên thuỷ thì truyền thuyết 
ra đời từ nhu cầu tôn vinh, nhu cầu được tự hào về những chiến công vĩ đại cả 
về làm ăn, cả về chiến đấu của con người thời đại anh hùng.
 3 - Truyền thuyết thời Hồng Bàng: thể hiện niềm tự hào của nhân dân về tổ 
tiên, giống nòi, về nguồn gốc các dân tộc người. Truyền thuyết là sự thể hiện sự 
trưởng thành về ý thức con người. Đó là ý thức về quốc gia, dân tộc đồng thời 
với nó là ý thức cội nguồn. Khi xã hội càng phát triển, con người đã đạt được 
những thành tựu nhất định thì họ càng có ý thức về bản thân mình, muốn tô 
điểm cho nguồn gốc, phẩm chất của mình. Truyền thuyết ra đời để chuyển tải 
nội dung đó.
 - Truyền thuyết thời Văn Lang - Âu Lạc:
 Những anh hùng dựng nước như: Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương , 
Sơn Tinh. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ phản ánh quá trình liên minh 
bộ lạc của những người vùng núi và vùng sông nước, miền xuôi và miền ngược, 
của những người thờ vật tổ là rắn và bộ lạc thờ chim làm vật tổ. Đó là mối dây 
liên kết đầu tiên, là tiền đề để hình thành dân tộc Việt. Tiếp sau đó, những chiến 
công diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh của Lạc Long Quân thể hiện quá trình 
chinh phục thiên nhiên, mở mang bờ cõi của ông cha ta (vùng biển, vùng đầm 
lầy và vùng rừng núi).
 + Truyện Hùng Vương chọn đất đóng đô, Thành Phong Châu, Con Voi bất
 nghĩa, Vua Hùng dạy dân trồng lúa, Vua Hùng đi săn đề cao hình tượng 
Vua Hùng là người có công dựng nước, biết cách trị nước giúp dân.
 + Hình tượng những người con trai, con gái, con rể cùng góp công dựng
 nước, mở mang bãi bờ, cai trị dân chúng: Con gái Tiên Dung, con rể Chử 
Đồng Tử dạy dân làm ăn, mở mang bờ cõi; con gái Ngọc Hoa, con rể Sơn Tinh 
dạy dân trồng lúa, dệt vải, hát múa Đặc biệt Sơn Tinh đã lập nên chiến công 
to lớn, chiến thắng lực lượng tự nhiên để mở mang địa bàn sinh tụ.
 Những sự kiện đó là quá khứ vẻ vang gắn với niềm tự hào về nòi giống và 
dân tộc, đề cao ý thức về dòng dõi, nguồn gốc “con Lạc cháu Hồng” cao quý. 
Dễ dàng nhận thấy chủ đề xuyên suốt các truyền thuyết này là suy tôn các vua 
Hùng và ca ngợi công lao dựng nước, an dân của các vị trong suốt buổi bình 
minh của lịch sử dân tộc.
 Những anh hùng giữ nước: Thánh Gióng, An Dương VươngHọ là những 
người có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc, có khí phách 
hiên ngang, kiên cường, bất khuất, vừa anh dũng vừa mưu trí, có tài dẹp giặc chỉ 
trong nháy mắt. Bên cạnh sức khoẻ vô song, những nhân vật này lập được chiến 
công nhờ sự phù trợ của các vật thiêng: An Dương Vương có nỏ thần, được sứ 
Thanh Giang giúp sức, Thánh Gióng có ngựa sắt, roi sắt Nhưng những vật 
thiêng này không hàm chứa năng lượng của tự nhiên như trong thần thoại mà nó 
là kết tinh của sức mạnh tập thể. Thánh Gióng được sự giúp sức của người thợ 
rèn sắt, đoàn trẻ trăn trâu cầm bông lau (làng Hội Xá), người cầm vồ (Làng 
Trung Mầu), người tạc tượng (tại Làng Mã, Gióng quay ngựa nhìn đất nước, Vu 
Điền gặp Gióng và tạc tượng Gióng). Như vậy, người anh hùng Gióng là kết 
tinh của mọi khả năng anh hùng trong thực tiễn: quần chúng, công cụ sản phẩm, 
vũ khí và địa thế non sông (theo Cao Huy Đỉnh). Một số nhân vật anh hùng sáng 
 5 Truyện may áo chồng bằng hơi thở ấm Như vậy, người anh hùng vừa đại diện 
cho tập thể, vừa hoà tan vào tập thể.
 Truyền thuyết thời phong kiến tự chủ
 - Thời phong kiến độc lập, truyền thuyết tập trung ca ngợi các nhân vật giữ 
yên đất nước trong thời kỳ độc lập: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Dương 
Vân Nga đến những anh hùng chống ngoại xâm Lý Thường Kiệt, Trần Hưng 
Đạo, Lê Lợi, Lê Lai Tất cả nêu lên ý chí giữ gìn độc lập và tinh thần quyết 
tâm chống giặc của mọi người dân Việt Nam. Người anh hùng, vị vua anh minh 
bao giờ cũng hội tụ đầy đủ ba phẩm chất: trí, dũng, nhân (Lê Lợi xướng nghĩa). 
Kéo theo đó là những cuộc hội ngộ của vua dũng tướng tài, tạo nên một sức 
mạnh vô cùng vững chắc. Lê Lai sẵn mình chết thay cho chủ. Phải có những 
người như Lê Lai mới dám quả cảm hi sinh thay cho Lê Lợi nhưng cũng phải 
thấy rằng, chỉ có những người như Lê Lợi mới quy tụ được những người như Lê 
Lai. Hay như câu chuyện giữa Quốc công Trần Hưng Đạo và Thượng tướng 
Trần Quang Khải, con vua Thái Tông, do có mối bất hoà, nên nhiều lúc hai 
người ở bên nhau mà nói năng không được tự nhiên, tâm tình không được cởi 
mở. Nhân biết Quang Khải là người sợ nước, lười tắm, một hôm Trần Hưng Đạo 
rủ Quang Khải ra sông tắm mát. Hưng Đạo tự tay kỳ cọ cho Quang Khải, tắm 
xong vui vẻ hỏi: Thế nào, Thượng tướng có thấy nhẹ mình không? Quang Khải 
hiểu ý, đã xúc động nói: Nhẹ mình lắm! Thật là vì nước mới được thế này! Từ 
đó, hai người sống với nhau rất hoà hợp, cùng nhau thật sự gắn bó, một lòng một 
dạ chung lo việc diệt giặc cứu nước.
 Truyền thuyết thời kì cận hiện đại
 Chế độ phong kiến bước vào chặng đường suy yếu, tàn tạ, hàng loạt các 
cuộc khởi nghĩa nông dân xuất hiện và truyền thuyết nhanh chóng nắm lấy đề tài 
này. Truyền thuyết đề cập đến những người anh hùng xuất thân từ tầng lớp dưới 
đáy xã hội: Quận He, Chàng Hía, vua Heo, cố Bu
 - Qua đó, các nhân vật anh hùng muốn thể hiện một lý tưởng: muốn thay 
đổi xã hội, thiết lập một xã hội tự do, bình đẳng. Đó không chỉ là hành động, là 
ước mơ của một cá nhân mà là của một tầng lớp nhân dân.
 - Mặc dù vậy, nhân dân cũng đồng thời lý giải nguyên nhân thất bại của 
cuộc khởi nghĩa: Nhân dân phê phán tính chất phiêu lưu, mạo hiểm chủ quan 
khinh địch của những thủ lĩnh nông dân; phê phán tư tưởng trung quân, hiếu đạo 
mù quáng. Những người anh hùng nông dân ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng 
Nho gia về Trung – Hiếu – Tiết – Nghĩa: Hầu Tạo phải ra hàng nếu không mẹ 
ông bị giết, ông còn làm tròn chữ hiếu mặc dù phải vứt bỏ chữ trung Người 
anh hùng nông dân còn nhiều tính xấu như tham tiền, tham sắc: Chàng Lía giết 
chết tên chủ khảo trường thi nhưng lại lấy vợ lẽ của hắn
 Nhân vật trong truyện truyền thuyết bao gồm cả người và thần. Nhiều vị 
thần đó được nhân hóa: vị thì sinh ra người (Lạc Long Quân, Âu Cơ), vị thì do 
con người sinh ra (Thánh Gióng), vị thì lấy con người (Sơn Tinh)
 Sự kiện trong truyền thuyết là sự kiện lịch sử hoặc có liên quan đến lịch sử.
 7

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_van_ban_tr.doc
  • docxBIA SKKN Văn 6.docx