Sáng kiến kinh nghiệm Dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn Lớp 7

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn Lớp 7

Cơ sở lí luận của vấn đề

 1.1 “Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn bản. Nói đến văn bản nhật dụng là nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hội Bởi vậy, văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể tài cũng như các kiểu văn bản” ( Ngữ văn 6- tập hai)

1.2 Bởi vậy mà những văn bản đều được lựa chọn theo những đề tài với những vấn đề có tính thời sự rất cao và cập nhật với đời sống hiện đại. Chính vì vậy mà các văn bản nhật dụng có tính lâu dài cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loài.

 Chẳng hạn như vấn đề bảo vệ di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt nhân, môi trường, dân số, vấn đề giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá.Tất cả đó đều là những vấn đề nóng bỏng của hôm nay nhưng không thể ngày một ngày hai mà giải quyết được.

 Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một yêu cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng nó vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất định: kể chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị luận hay điều hành. có nghĩa là văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại mọi kiểu văn bản.

Hơn nữa đối với các em học sinh THCS các em mới lần đầu tiên làm quen với loại văn bản nhật dụng nên có phần còn bỡ ngỡ. Chưa nói đến một số ít giáo viên ở một số trường vẫn chưa thực sự quan tâm thích đáng đến phần văn bản này. Do đó mà việc vận dụng và đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có một vai trò vô cùng quan trọng. Với các em khi học văn bản nhật dụng không chỉ là để mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn nhằm tạo cho các em thực hiện nguyên tắc là để các em hoà nhập với cuộc sống xã hội và rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội.

 

doc 31 trang hoathepmc36 01/03/2022 7643
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
Trang
1
Trang bìa
2
Mục lục
1
3
Phần thứ nhất: Mở đầu
2
4
Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề
4
5
I. Cơ sở lý luận
4
6
II. Thực trạng vấn đề
4
7
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
6
8
IV. Tính mới của giải pháp
22
9
V. Hiệu quả SKKN
22
10
III. Phần kết luận và kiến nghị
24
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
 	 Có thể nói trong trường kì lịch sử loài người, môn Văn là một môn học có lịch sử lâu đời nhất trong các môn học. Trong bất kì giai đoạn nào, môn học này cũng hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau đây :
Thứ nhất, giúp người học biết đọc, biết viết (biết chữ)
Thứ hai giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết cảm nhận, thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn chương, nghệ thuật.
Thứ ba, thông qua hai nhiệm vụ trên mà mở mang tri thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm và rèn luyện nhân cách cho người học sinh.
Ngày nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới, mục tiêu của giáo dục nhà trường phổ thông đã xác định rõ trong luật giáo dục:
“ Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thanh nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Luật Giáo dục – Điều 23)
 	Do yêu cầu gắn với cuộc sống hiện tại nên chương trình Ngữ văn trung học cơ sở có đưa vào một số văn bản nhật dụng. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hộiNhằm đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hằng ngày vừa có ý nghĩa lâu dài trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm đến, giúp các em “hòa nhập với xã hội”, thấy được vai trò và nhiệm vụ của mình đối với xã hội . Từ đó có tinh thần thái độ học tập đúng đắn hơn.
Muốn chuyển tải một cách tốt nhất những kiến thức cơ bản đó đến người học. Người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, hiểu biết sâu rộng, vốn sống phong phú. Ai cũng hiểu nếu không nắm vững tri thức thì không thể dạy tốt được nên người giáo viên bao giờ cũng chú tâm vào việc đào sâu kiến thức, suy ngẫm, tìm tòi nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu các đối tượng học sinh.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi cảm thấy rằng đúng là cần trăn trở về việc giảng dạy các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS. Đặc biệt là cụm văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7. Tôi mạo muội viết đề tài: “Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7”. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng dạy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt của học sinh trong việc tiếp nhận thông tin, khám phá giá trị của các văn bản nhật dụng .
Dẫu có niềm đam mê nhưng vốn kiến thức về chuyên môn còn hạn hẹp nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý của cấp trên và đồng nghiệp.
II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu: 
 Có thể nói: Chương trình Ngữ văn THCS được xây dựng theo tinh thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí Kiểu văn bản( Tập làm văn) và tương ứng với kiểu văn bản là Thể loại tác phẩm(văn học). Điều này có nghĩa là việc lựa chọn các văn bản căn cứ trước hết vào tính chất tiêu biểu của kiểu văn bản và thể loại tác phẩm. Song bên cạnh đó còn có một nội dung mà chương trình Ngữ văn quan tâm là sự cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hàng ngày, vừa có ý nghĩa lâu dài, trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm hướng tới  Đó chính là hệ thống các văn bản nhật dụng.
 Nhưng để truyền đạt những kiến thức cơ bản và đạt được mục đích đã xác định thì mỗi người hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một con đường với những cách thức và các thao tác sư phạm của riêng mình. Con đường riêng ấy được hình thành từ những suy nghĩ của cá nhân về nội dung bài dạy cũng như đối tượng học sinh.
 Cho nên trong gần 20 năm giảng dạy ở trường THCS Buôn Trấp, bản thân tôi đã xác định mục đích nghiên cứu của mình là làm sao để học sinh khối 7 mà mình đã, đang và sẽ giảng dạy thông qua các bài học cụ thể của nhóm văn bản nhật dụng mà hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề về quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ (người mẹ) và vấn đề văn hóa giáo dục. Ngoài ra còn nhằm góp phần tạo thêm sự hứng thú và nâng cao hiệu quả của giờ lên lớp của mỗi giáo viên.
	Mục đích chính của đề tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để từ đó bản thân có thêm kinh nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay.
	Cũng có thể đề tài này chỉ là một tài liệu dùng để tham khảo để phục vụ cho việc giảng dạy văn bản nhật dụng ở khối 7 THCS
Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
 	1.1 “Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn bản. Nói đến văn bản nhật dụng là nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hội Bởi vậy, văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể tài cũng như các kiểu văn bản” ( Ngữ văn 6- tập hai)
1.2 Bởi vậy mà những văn bản đều được lựa chọn theo những đề tài với những vấn đề có tính thời sự rất cao và cập nhật với đời sống hiện đại. Chính vì vậy mà các văn bản nhật dụng có tính lâu dài cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loài.
	Chẳng hạn như vấn đề bảo vệ di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt nhân, môi trường, dân số, vấn đề giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá....Tất cả đó đều là những vấn đề nóng bỏng của hôm nay nhưng không thể ngày một ngày hai mà giải quyết được.
	Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một yêu cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng nó vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất định: kể chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị luận hay điều hành.... có nghĩa là văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại mọi kiểu văn bản.
Hơn nữa đối với các em học sinh THCS các em mới lần đầu tiên làm quen với loại văn bản nhật dụng nên có phần còn bỡ ngỡ. Chưa nói đến một số ít giáo viên ở một số trường vẫn chưa thực sự quan tâm thích đáng đến phần văn bản này. Do đó mà việc vận dụng và đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có một vai trò vô cùng quan trọng. Với các em khi học văn bản nhật dụng không chỉ là để mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn nhằm tạo cho các em thực hiện nguyên tắc là để các em hoà nhập với cuộc sống xã hội và rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội.
II. Thực trạng vấn đề:
1/ Thực trạng của vấn đề: Thực tế khi đứng trên lớp trực tiếp giảng dạy cùng với sự đóng góp ý kiến trao đổi với các đồng nghiệp bản thân tôi nhận thấy khi khai thác giảng dạy văn bản nhật dụng giáo viên thường mắc phải một số hạn chế như sau:
	Giáo viên coi những văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện, kí. Trong khi đó bản thân nó lại không phải. Vì thế giáo viên chỉ chú ý dựa vào các điểm của thể loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự việc ghi chép để phân tích nội dung.
	Giáo viên thường chú ý khai thác và bình giảng trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh.
Ví dụ khi dạy văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, GV chỉ chú ý truyền tải nội dung, cốt truyện mà chưa giúp học sinh liên hệ với chính bản thân mình nếu xãy ra vấn đề đó đối vói gia đình, bạn bè và những người xung quanh mình.
	Hơn nữa giáo viên quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo viên chưa chú ý nhiều tới liên hệ thực tế dẫn đến khai thác kiển thức chưa đầy đủ.
	Một mặt vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng. Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biên pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. Trong tiết học thường khô khan, thiếu sinh động và chưa kích thích hứng thú và sự say mê yêu thích của các em khi học văn.
	Phương tiện dạy học cũng đóng một vai trò quan trọng quyết định chất lượng giờ dạy:ở đây giáo viên chỉ có thể dùng bảng phụ, phiếu học tập đó là do cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu. Trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem các tranh ảnh minh hoạ, đoạn băng ghi hình, sơ đồ tư duy thì sẽ làm cho tiết học sinh động hơn nhiều. Chẳng hạn khi dạy bài Ca Huế trên sông Hương thì hầu như giáo viên không chú ý đến vấn đề này.
	Giáo viên còn có một tâm lí là phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này hay không và nếu có thì sử dụng ở mức độ nào?
	Giờ học tẻ nhạt không thực sự thu hút sự hứng thú của học sinh. Bản thân các em chưa biết liên hệ thực tế, chưa biết giải quyết vấn đề nêu ra trong văn bản nhật dụng.
2/Nguyên nhân của thực trạng:
+ Số lượng văn bản nhật dụng chiếm số lượng không nhiều (khoảng 10% trong chương trình sgk THCS) nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng đặt vấn đề về phương pháp dạy học văn bản nhật dụng. Bởi vậy nên giáo viên ít có kinh nghiệm, giờ giảng dạy còn lung túng về phương pháp.
+ Việc sử dụng máy chiếu của giáo viên chưa thực sự nhuần nhuyễn, chưa được đều đặn nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh, đoạn phim, bài dân ca Bắc Bộ còn rất hạn chế.
+ Giáo viên chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng.
+ Giáo viên ít sưu tầm các tài liệu liên quan đến văn bản nhật dụng để bổ sung cho bài học thêm phong phú.
+ Một nguyên nhân có thể nói là khó có thể giải quyết ngay được là việc học của học sinh. Đa phần học sinh của trường chúng tôi là con nông dân, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái chưa thực sự tốt nhiều gia đình đi làm ăn xa không có điều kiện quan tâm đến các em. Nhiều em không chăm học, về nhà không học bài, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp dẫn đến không hiểu bài. Điều đó đã làm cho giáo viên càng gặp khó khăn hơn.
+ Đồng thời hệ thống văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 7 lại tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là truyện ngắn (Cuộc chia tay của những con búp bê), một bài bút kí(Ca Huế trên sông Hương)Cũng có thể là một bài báo biểu cảm(Cổng trường mở ra), Bức thư(Mẹ tôi). Năm học 2014-2015 bản thân tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 từ thực trạng nêu trên nên kết quả của việc học văn bản nhật dụng của năm 2014- 2015 được thể hiện qua bài kiểm tra 15 phút như sau (cụ thể tôi dạy 3 lớp 7a4, 7a7, 7a8).
Lớp
Điểm 8-> 10
5-> 7
1->4
7a4, 7a7, 7a8 (TS: 98)
13 em
35 em
50 em
Lưu ý: Điểm khá, Giỏi phần lớn đều nằm ở lớp 7a8.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1 / Một số vấn đề cơ bản cần chú ý khi dạy các văn bản nhật dụng: 
1.1) Dạy loại văn bản này là “ Tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hòa nhập với xã hội”. Nên các đề tài được chọn dĩ nhiên phải có tính chất thời sự, song đó cũng phải là những đề tài có liên quan đến “Những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài”.
Do đó dạy văn bản nhật dụng, trước hết phải từ cái trước mắt, có tính cập nhật và thời sự, chỉ ra ý nghĩa lâu dài muôn thuở; từ cái của một nơi, chỉ ra điều của mọi nơi; từ một phương diện, chỉ ra mối liên quan của nhiều phương diện. Do chức năng, đề tài, tính chất của văn bản, GV có quyền và cần cho HS liên hệ tới một phạm vi rộng rãi mà không bị quá gò bó trong khuôn khổ văn chương. Hoàn toàn có thể cho HS liên hệ trực tiếp vấn đề đang học với tình hình địa phương và khi cần, có thể sử dụng một giờ dành cho chương trình địa phương để tiến hành các hoạt động điều tra, thống kê, khảo sát.
1.2) Ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, còn có những thông tin khác về lịch sở, xã hội, chính trị,  Cần lưu ý HS đọc kĩ cả những chú thích đó mới hiểu được một cách đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của văn bản.
 	1.3) Không nên quan niệm đây là những sáng tác tiêu biểu cho các tác phẩm văn học của một thời kì hay một tác giả nào đấy để đặt ra hay đòi hỏi qua cao yêu cầu về nghệ thuật của văn bản. Mặc dù các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS có cách viết trong sáng, chuẩn mực, nhưng có lẽ nhà biên soạn chủ yếu vẫn là chú ý đến nội dung chính đặt ra trong tác phẩm ấy. Vì vậy khi dạy học các văn bản nhật dụng , GV nên tập trung khai thác các vấn đề nội dung tư tưởng đặt ra ở mỗi văn bản; từ đó mà liên hệ , giáo dục tư tưởng, tình cảm và ý thức cho HS trước các vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm.
2) Những lưu ý về nội dung khi dạy các văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 7: 
 2.1) Trong chương trình Ngữ văn 7 gồm 4 văn bản nhật dụng sâu đây:
Cổng trường mở ra Của Lí Lan.
Mẹ tôi của Et-môn-đô-đơ A-mi-xi trong Những tấm lòng cao cả.
Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài.
Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.
 	 Hai văn bản Cổng trường mở ra Của Lí Lan và Mẹ tôi của Et-môn-đô-đơ A-mi-xi nhằm khai thác nội dung người mẹ và nhà trường. Văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài thuộc đề tài quyền trẻ em. Văn bản cuối là một bài báo giới thiệu một sản phẩm văn hóa nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.
2.2. Nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa của các nội dung đặt ra trong mỗi văn bản nhật dụng để hướng dẫn học sinh tự liên hệ, rút ra được bài học cho chính bản thân mình. Chẳng hạn:
 	2.2.1 Cổng trường mở ra là một bài kí được trích từ báo là một bài kí được trích từ báo Yêu trẻ – thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Lí Lan. Bài văn ghi lại tâm trạng của một người mẹ trong đêm chuẩn bị cho con trước ngày khai trường vào lớp một. Không có sự việc, không có cốt truyện, chủ yếu là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng đón chờ ngày khai trường. Người mẹ không ngủ, phần vì lo chuẩn bị cho con, nhưng phần vì cả tuổi thơ áo trắng đến trường của chính mình sống dậy. “Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như nghe tiếng đọc trầm bổng : “Hằng năm cứ vào cuối thu Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”
Khi dạy bài này, GV chủ yếu hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích tâm trạng của người mẹ là chính. Qua tâm trạng này mà thấy được tình cản và tấm lòng của bà mẹ trước ngày con vào lớp một. Từ đó mà HS liên hệ với chính bản thân mình.
 	 2.2.2 Mẹ tôi là một bài văn mang tính truyện nhưng lại dưới dạng một bức thư của nhà văn Ét-môn-đô-đơ A-mi-xi( Nhà văn I-ta-li-a). có chuyện xãy ra nhưng phần chính vẫn là tâm trạng và những suy nghĩ của người bố qua bức thư gửi cho con – người đã phạm lỗi. Qua bức thư, người đọc thấm thía công lao và tình cảm của người mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người con. Do tập trung đề cao người mẹ và nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, có những chỗ tác giả diễn đạt khá cực đoan, ví dụ; “ Bố rất yêu con, con ạ, con là niềm hi vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”, trong quá trình phân tích nếu để nguyên như thế hoặc không khéo léo học sinh cảm thấy nặng nề và có thể hiểu nhầm tấm lòng của người cha rằng yêu vợ hơn con nên nười giáo viên phải phân tích, bình luận và chỉ rõ cho các em thấy tình cảm và sự nghiêm khắc của người cha trong việc giáo dục con.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích văn bản, từ đó mà rút ra nội dung và ý nghĩa của bài học, tự liên hệ và kiểm điểm về những thái độ và tình cảm của chính bản thân đối với bố mẹ mình.
2.2.3 Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài tuy là một truyên ngắn, nhưng khi vào sách Ngữ văn, văn bản này vẫn chủ yếu được khai thác theo tinh thần của một văn bản nhật dụng. Đây là văn bản thể hiện vấn đề quyền trẻ em, một trong những nội dung chính của mảng văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 7. Trẻ em có rất nhiều quyền. Điều đó đã được ghi trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc 1989. Tuy vậy đề tài về quyền trẻ em thì không phải nhiều. Các tác giả thường khai thác ở một số vấn đề như: Nỗi khổ về cuộc sống vật chất và nỗi đau về tinh thần. Một trong những nỗi đau về tinh thần đó là nỗi đau sống thiếu cha, thiếu mẹ. Cha mẹ không may mất đi là một nỗi đau đã đành. Cha mẹ vẫn sống mà con cái vẫn bị chia lìa xa cách mới là điều đáng nói. Nỗi đau này do chính con người tạo nên cho bản thân và con cái mình. Truyện Cuộc chia tay của những con búp bê viết về vấn đề này nhưng qua câu chuyện người đọc còn thấy được những tình cảm anh em trong sáng, thân thiết, sự gắn bó máu thịt và tấm lòng nhân hậu, vị tha của những em bé chẳng may rơi vào cảch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Truyện ngắn này đã được giải nhì trong cuộc thi thơ văn viết về quyền trẻ em do viện khoa học giáo dục và tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển tổ chức năm 1992. Khi đọc văn bản này, bản thân tôi cũng hơi băn khoăn là liệu vấn đề khá tế nhị và phức tạp của người lớn (chuyện li hôn) mà cho HS lớp 7 biết như thế có quá sớm không? Sau khi trao đổi với đồng nghiệp tôi mới nhận thấy việc dạy văn bản này cho lứa tuổi này không có gì đáng lo lắng vì:
 	- Thứ nhất, vấn đề hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, bố mẹ li hôn, con cái chịu nhiều đau đớn, thua thiệt, là một sự thật không nên né tránh trong xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, phát thanh, truyền hình,)cũng thường xuyên khai thác vấn đề này. Vì thế đây không còn là câu “chuyện kín” cần phải giữ gìn, “che đậy” với các em.
 	 - Thứ hai, nội dung chính của truyện Cuộc chia tay của những con búp bê không tập trung khai thác và miêu tả trực tiếp cảnh đổ vỡ giữa cha mẹ (như xô xát, mắng chửi, đập phá,) mà chủ yếu tập trung khắc hoạ những tình cảm và tấm lòng vị tha, nhân hậu, trong sáng và cao đẹp của hai em bé. Chính điều này có ý nghĩa giáo dục không chỉ với các em mà cho cả những người đã là cha, là mẹ. Cũng chính điều này cùng với cách kể chuyện chân thật đã tạo cho truyện một sức truyền cảm khá mạnh, khiến cả người dạy lẫn người học rất xúc động. Do đó khi dạy, GV cần tập trung khai thác nội dung này là chính.
2.2.4 Ca Huế trên sông Hương của Hà Anh Minh nhằm giới thiệu những sản phẩm văn hố truyền thống của dân tộc. Bài văn viết về một sản phẩm văn hố nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương. Đây không phải là một truyện ngắn, một sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí, ghi chép một nét sinh hoạt văn hóa: Ca Huế trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế; giới thiệu những hiểu biết của tác giả về nuồn gốc, về sự phong phú của cac làn điệu dân ca Huế.
 	Bài văn vừa tả cảnh ca Huế trong một đêm trăng trên dòng sông Hương thơ mộng, vừa giới thiệu những làn điệu dân ca Huế, vì thế không thể chia bố cục một cách rõ ràng. Tuy vậy GV có thể tập trung khai thác mấy nội dung cơ bản sau:
Vẻ đẹp phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca Huế ( thể hiện qua tên gọi các làn điệu, qua nhạc cụ và cách chơi)
Vẻ đẹp của cảnh ca Huế trong đêm trăng thơ mộng trên dòng sông Hương.
Nguồn gốc của một số làn điệu ca Huế.
 	 Có thể do nội dung và tính chất của bài viết mà tác giả nhắc tới rất nhiều tên các làn điệu ca Huế, nhạc cụ và các “ngón đàn” của ca công. Khi học, GV không nên bắt các em phải nhớ, phải hiểu hết các chú thích. Nên chốt lại vấn đề bằng việc khái quát: Ca Huế đa dạng và phong phú đến nỗi chúng ta khó mà nhớ hết được tên các làn điệu, tên các nhạc cụ và các ngón đàn của ca công.
Bài học này nằm gần với phần chương trình Ngữ văn địa phương(tuần 29) và hoạt động Ngữ văn (tuần 31) vì thế GV cần liên hệ nội dung bài học này với các nội dung sẽ học trong các tuần đó. Ví dụ:
Từ bài văn đề nghị các em liên hệ với các làn điệu dân ca nói riêng và các sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung của quê hương mình.
Thử sưu tầm và giới thiệu một băng, đĩa nhạc có ca Huế, hoặc các bài hát hiện đại phỏng theo những điệu ca Huế.
Thử tập hát một vài làn điệu ca Huế hoặc giới thiệu một làn điệu dân ca c

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_van_ban_nhat_dung_trong_chuong_tri.doc