Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 7 viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 7 viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học

Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người .

Là một môn học thuộc nhóm khoa học và xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn.

Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn : Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân môn được coi là khó nhất.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác làm nổi bật điều mình muốn nói” (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, nghiên cứu giáo dục số 28, 11/ 1973)

Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn 7, trong chương trình kì 1 , các em được làm quen với văn biểu cảm nhưng tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “ khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc’’.

docx 23 trang Mai Loan 20/12/2023 2006
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 7 viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người .
Là một môn học thuộc nhóm khoa học và xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn.
Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn : Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân môn được coi là khó nhất.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác làm nổi bật điều mình muốn nói” (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, nghiên cứu giáo dục số 28, 11/ 1973)
Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn 7, trong chương trình kì 1 , các em được làm quen với văn biểu cảm nhưng tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “ khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc’’. Khi hành văn các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác.Khi viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học, các em còn chưa phân biệt được biểu cảm tác phẩm văn học và phân tích tác phẩm văn học nên kết quả đạt được chưa cao vì vậy tội đưa ra đề tài sáng kiến kinh nghiệm : “ Hướng dẫn học sinh lớp 7 viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học”
MỤC ĐÍCH:
Trong đề tài nghiên cứu tôi muốn chỉ ra nét khác biệt và rộng lớn của phần văn biểu cảm về tác phẩm văn học lớp 7, định ra những quan điểm cụ thể về văn biểu cảm , phương pháp hướng dẫn học sinh làm bài văn biểu cảm , các kĩ năng quan trọng khi làm bài văn biểu cảm .Định ra những thao tác cơ bản cần thiết để học sinh định hướng tốt và có khả năng biểu cảm sâu sắc về một vấn đề cuộc sống hay một tác phẩm văn học.
KẾT QUẢ :
Tôi đã vận dụng và dần dần hoàn thiện đề tài qua những năm gần đây khi được phân công giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 7. Qua thực tế tôi thấy học sinh rất ngại biểu cảm hoặc rất khó khăn khi tiếp nhận kiểu bài văn biểu cảm, nhưng sau khi áp dụng đề tài các em dần nắm được phương pháp làm bài, có kĩ năng biểu cảm khá tốt, dần tự tin hơn đối với các loại biểu cảm về tác phẩm văn học 
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, KẾ HOẠCH VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đi sâu kinh nghiệm biểu cảm một tác phẩm văn học, bởi vì biểu cảm là một lĩnh vực sâu rộng, nhiều thể loại biểu cảm về con người, sự vật, khung cảnh thiên nhiên
Biểu cảm về một tác phẩm văn học là trình bày những cảm xúc liên tưởng, tưởng tượng suy ngẫm về nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học hoặc một nhân vật, một đoạn trích,một bài ca dao .
Từ hiểu biết tìm tòi nghiên cứu về kiểu bài tập làm văn biểu cảm nói chung tôi đi sâu tìm ra giải pháp cụ thể để học sinh làm bài biểu cảm về tác phẩm văn học thông qua các kĩ năng cơ bản :
Trình bày cảm xúc
Liên tưởng
Tưởng tượng
Suy ngẫm
Qua một vài năm được phân công giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7 kì 1 tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc giảng dạy hướng dẫn học sinh viết bài tập làm văn biểu cảm về tác phẩm văn học. Sau đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy.
PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Văn biểu cảm là tiếng nói tình cảm hết sức phong phú của con người. Đối tượng của phương thức biểu đạt này không phải là phong cảnh, đồ vật hay bức tranh về cuộc sống con người như ở văn miêu tả, cũng không phải là những số phận, những cảnh đời, những sự việc như ở văn tự sự mà là thế giới tinh thần muôn hình, muôn vẻ với những tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người trước cuộc đời. Hay nói đúng hơn, tư tưởng, cảm xúc, nỗi niềm là đối tượng phản ánh trực tiếp của phương thức biểu cảm.
Phạm vi của văn biểu cảm rộng hơn cảm nghĩ , nó gắn liền với toàn bộ đời sống tình cảm, cảm xúc, đánh giá của con người về sự vật con người tác phẩm văn học. Mục đích của người viết văn biểu cảm là bày tỏ tình cảm , cảm xúc về một đối tượng cụ thể nhằm khơi gợi sự đồng cảm nơi người đọc , sao cho người đọc cảm nhận được tình cảm , cảm xúc của người viết.
Trong thực tế nhu cầu biểu cảm của con người rất lớn bởi con người có tình cảm và nhu cầu giao lưu tình cảm.Tình cảm trong văn biểu cảm phải là những tình cảm cao đẹp , giàu giá trị nhân văn , nó làm phong phú tâm hồn con người , dẫn con người đến chân thiện mĩ.
Biểu cảm về tác phẩm văn học là trình bày những cảm xúc suy nghĩ về những giá trị nghệ thuật, nội dung của các tác phẩm.Biểu cảm về tác phẩm văn học bao gồm nhiều nội dung cụ thể như : biểu cảm về toàn bộ tác phẩm, biểu cảm về một đoạn trích trong tác phẩm hoặc biểu cảm về nhân vật trong tác phẩm
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ :
Trong chương trình ngữ văn lớp 7 văn biểu cảm được đưa vào với vị trí quan trọng trong học kì I với số tiết lí thuyết là 12 tiết, thực hành 4 tiết
Suốt học kì I lớp 7 học sinh lại chủ yếu học các văn bản trữ tình như thơ ca dân gian, thơ ca trung đại, các tác phẩm tuỳ bút, văn bản nhật dụng mang đậm chất trữ tình Vì thể biểu cảm về một tác phẩm văn học là một dạng bài khá quan trọng trong chương trình phân môn làm văn 7, cũng là một yêu cầu khá khó khăn đối với đối tượng học sinh lớp 7, học sinh năm thứ hai của cấp học THCS.
Qua thực tế dạy chương trình Ngữ văn 7, tôi nhận thấy kĩ năng vận dụng các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của nhiều học sinh trong bài viết biểu cảm về tác phẩm văn học chưa cao. Dạng bài tập làm văn biểu cảm về tác phẩm văn học, tôi nhận thấy các em thường gặp vướng mắc trong việc biểu cảm về tác phẩm văn học . Đa phần các em đều chưa hiểu, nhầm lẫn giữa biểu cảm và các phương thức biểu đạt khác nên khi làm bài thường thiếu các yếu tố biểu cảm, thậm chí hầu như không bộc lộ cảm xúc về tác phẩm văn học. Thậm chí có những học sinh diễn xuôi các tác phẩm văn học rồi nêu lên cảm nghĩ một cách gò bó, công thức,không biết biểu cảm bằng sự rung cảm trước con người , thiên nhiên,sự vật ngôn từ của các tác phẩm văn học. Sau dần các em rập khuôn máy móc, thụ động trong khi viết dạng bài biểu cảm văn học.
Trước những khó khăn của việc giảng dạy dạng bài này tôi xin đưa ra các giải pháp để tổ chức hướng dẫn học sinh cách viết dạng bài biểu cảm về một tác phẩm văn học.
CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN :
Củng cố những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần nắm vững khi làm văn biểu cảm.
Đây là khâu quan trọng đầu tiên, không phải chỉ riêng văn biểu cảm mà ở tất cả các kiểu văn bản được học ở THCS . Việc cung cấp tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm được tiến hành ở nhiều tiết, xen kẽ: từ tiết “Tìm hiểu chung về văn biểu cảm” đến tiết “ Ôn tập văn biểu cảm” nhất là tiết học “ Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học” đã hình thành rõ cho các em cách làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
Để làm tốt dạng bài văn biểu cảm tác phẩm văn học, trước tiên học sinh nắm vững khái niệm chung về văn biểu cảm :
Văn biểu cảm là văn bản viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. (SGK Ngữ văn 7- Tập I).
Thường thì những bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu. Tình cảm ấy được bộc lộ trực tiếp thông qua những suy nghĩ, những nỗi niềm, những cảm xúc trong lòng người. Tuy nhiên trong thực tế, khi viết văn biểu cảm (dù ở dạng thơ hay văn xuôi), người ta vẫn thường hay kết hợp sử dụng những phương thức khác như miêu tả, tự sự để bộc lộ thái độ, tình cảm gián tiếp thông qua những đối tượng, những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ.
Tuy nhiên, khi vận dụng phương thức miêu tả và tự sự vào văn biểu cảm thì cũng cần lưu ý: có tả thì cũng không tả một cách cụ thể, hoàn chỉnh; có kể thì cũng không kể một cách chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Người viết văn biểu cảm chỉ chọn những đặc điểm, những sự việc, những thuộc tính nào đó có khả năng gợi cảm để biểu hiện tư tưởng, tình cảm của mình.
Về bố cục, bài văn biểu cảm cũng được tổ chức theo mạch cảm xúc của người viết. Do vậy, trình tự các ý, các phần trong văn biểu cảm thường được sắp xếp rất tự nhiên, không gò bó cứng nhắc. Về thái độ, tình cảm, phải đảm bảo tính chân thực, trong sáng, rõ ràng, có nghĩa là không được giả dối, sáo rỗng. Có như vậy, văn biểu cảm mới đi vào lòng người.
Có hai cách biểu cảm chính: Biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp
Biểu cảm trực tiếp là phương thức trữ tình bộc lộ những cảm xúc thầm kín bằng những từ ngữ trực tiếp gợi ra tình cảm ấy
Biểu cảm gián tiếp là thông qua tự sự miêu tả hay qua tưởng tượng liên tưởng suy ngẫm hình dung mà không gọi thẳng cảm xúc ấy ra để khơi gợi sự đồng cảm nơi người đọc .
Tình cảm trong văn biểu cảm là tình cảm đẹp thấm nhuần tư tưởng nhân văn (yêu con người , yêu cái đẹp , yêu tổ quốc, ghét những thói tầm thường giả dối, độc ác).
Giúp học sinh nắm được đặc trưng riêng của bài văn biểu cảm tác phẩm văn học :
Biểu cảm về một tác phẩm văn học bắt nguồn từ tác phẩm và sự suy nghĩ , cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm . Những cảm nghĩ ấy có thể như sau:
Cảm xúc về cảnh, về người trong tác phẩm
Cảm xúc về tâm hồn con người số phận nhân vật trong tác phẩm
Cảm xúc về vẻ đẹp ngôn từ trong tác phẩm
Cảm xúc về tư tưởng trong tác phẩm
Cảm nghĩ về tác phẩm thường gắn liền với thao tác phân tích, giải thích, chứng minh trong văn nghị luận .Trong điều kiện học sinh chưa học văn nghị luận (kì I lớp 7) thì có thể dựa vào việc tự sự, miêu tả, liên tưởng, tưởng tượng suy ngẫm về nội dung , liên hệ với các tác phẩm văn học đã học , học sinh có thể dựa vào phần hướng dẫn của giáo viên trong phần đọc hiểu văn bản đã học ở trên lớp để làm cơ sở cho việc bộc lộ cảm xúc về tác phẩm .
Điều cốt yếu là đối với việc phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học là học sinh phải ấn tượng về tổng thể về tác phẩm, về nhân vật chính hoặc về phong cảnh
,tình huống để nói lên ấn tượng ấy, cảm xúc và suy nghĩ trên cơ sở ấn tượng ấy.
Lập ý trong bài văn biểu cảm tác phẩm văn học :
Những cách lập ý thông thường vẫn được sử dụng nhưng có sự vận dụng phù hợp, như:
Liên hệ hiện tại với tương lai: Là hình thức dùng trí tưởng tượng để liên tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng biểu cảm trong hiện tại.--> Cách này dùng để đánh giá tương lai tác phẩm..
Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ hiện tại: là hình thức liên tưởng tới những kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỉ niệm để từ đó suy nghĩ về hiện tại . Đây cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc của con người trở nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ gắn kết rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa hiện tại và quá khứ.--> cách biểu cảm này gợi những kỉ niệm có liên quan đến tác phẩm, tác giả.
Tưởng tượng tình huống, hứa hẹn, mong ước: Là hình thức liên tưởng phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và gửi gắm vào đó những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như những ước mơ hi vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải có trí tưởng tượng
phong phú.--> tưởng tượng,tái hiện lại những chi tiết có trong tác phẩm từ đó bộc lộ cảm xúc
Quan sát, suy ngẫm: Là hình thức liên tưởng dựa trên sự quan sát những hình ảnh đang hiện hữu trước mắt để có những suy ngẫm về đối tượng biểu cảm . Cách lập ý thường tạo nên những cảm xúc chân thực, sâu sắc.--> thể hiện ở việc nêu phát biểu cảm
Giúp học sinh nắm được cách biểu cảm về tác phẩm văn học:
Tác phẩm văn học có thể là một bài ca dao, một bài thơ, một bài văn. Các bước làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học như:
Bước 1 – Chuẩn bị:
Bước 2 - Những lưu ý đối với các dạng bài biểu cảm về tác phẩm văn học. Bước 3 - Bố cục bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
Bước 4 - Thao tác cơ bản Với chi tiết như sau:
Bước 1: Phần chuẩn bị:
Đọc bài văn, bài thơ một vài lần, rút ra ấn tượng ban đầu. Đọc lần nữa để để phát hiện ra giọng điệu, chủ đề, những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, ngôn ngữ nghệ thuật mà tác giả đã diễn tả rất hay, gây cho mình nhiều ấn tượng.Suy ngẫm về những chi tiết trong tác phẩm để cảm nhận được cái hay cái đẹp về ngôn từ, hình ảnh từ đó bộc lộ cảm xúc của mình đối với tác phẩm.
Gạch chân, đánh dấu các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh, các câu thơ, câu văn hay nhất mà mình yêu thích nhất.
Làm dàn bài, dựng đoạn.
Viết bài và chỉnh sửa.
Bước 2: Những lưu ý đối với các dạng bài biểu cảm về tác phẩm văn học :
Biểu cảm về một bài thơ người viết có thể trình bày cảm xúc ấn tượng đối với nhân vật trữ tình, đối với tình cảm được bộc lộ qua hình ảnh , qua câu chữ, tiết tấu nhịp điệu bài thơ. Chẳng hạn khi viết bài thơ Qua Đèo Ngang có thể ấn tượng và cảm xúc chung đối với bài thơ, ấn tượng cảm nghĩ vể cảnh Đèo Ngang hoang
sơ, cảm xúc của người viết đối với thời gian buổi chiều tà, bóng xế; cảm nghĩ về tiếng chim quốc quốc, gia gia gợi đến hai chữ “nước nhà” ;cảm xúc về sự nhỏ bé, thưa thớt của con người qua hình ảnh vài chú tiều lom khom chìm lút trong bóng núi, vài ngôi nhà lác đác, thưa thớt ven sông, cảm nghĩ về sự cô đơn của tác giả trước cái bát ngát, xa rộng, của thiên nhiên ( trời, non , nước) khi đối diện với chính mình.Cũng có thể tưởng tượng ra cảnh Bà Huyện Thanh Quan dừng chân ở Đèo Ngang để bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, của người viết.
Biểu cảm về một tác phẩm truyện cần bày tỏ tình cảm ấn tượng chung về câu chuyện về vấn đề đặt ra trong tác phẩm, về vấn đề trong tác phẩm .Sau đó trình bày ấn tượng cảm xúc khâm phục , kính trọng yêu mến hay khinh ghét , ác cảm căm thù đối với nhân vật, đối với hành động ứng xử của nhân vật. Cũng có thể nêu bật cảm xúc của mình đối với một chi tiết trong truyện. Vận dụng những kinh nghiệm sống, kỉ niệm của mình ,liên hệ với những hiểu biết trong tác phẩm văn học khác để đánh giá hay nêu suy nghĩ đối với chi tiết. Chẳng hạn đối với nhân vật Thánh Gióng và chi tiết vươn vai thành một người dũng sĩ. Bỗng nhiên thành dũng sĩ thì không có gì lạ đối với các nhân vật truyền thuyết .Nhưng lí thú ở chỗ là chú bé ăn cơm gạo do nhân dân làng một nắng hai sương gom góp, chú là người con được sinh ra từ nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng.Hay đối với chi tiết Thánh Gióng từ từ bay lên trời. Sao Thánh Gióng không bay vút đi , sao Thánh Gióng không bỏ nốt con ngựa lại ?... Trước khi bay lên trời Thánh Gióng chào quê hương, phải nói lời từ biệt với những con người đã sinh ra ,nuôi dưỡng mình ,liệu Thánh Gióng đã nói gì ?
Người viết hoàn toàn có thể tưởng tượng ra những điều đó, thông qua đó mà bày tỏ tình cảm, đánh giá nhân vật.
Việc biểu cảm không tách rời với việc phân tích các chi tiết liên quan đến nhân vật nhưng rõ ràng mục đích của người viết không hướng vào chi tiết mà chỉ thông qua chi tiết đề bày tỏ tình cảm mình thấy gì ,mình có ý nghĩ gì,mình yêu cái gì, mình ghét cái gì. Ví dụ khi Nguyên Hồng trích dẫn câu ca dao : “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn-Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ” thì mục đích của Nguyên Hồng không phải phân tích cảm thụ mà chính là qua đó để bày tỏ: “Ôi, Tào Khê !Nước Tào Khê làm đá mòn đấy !Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thuỷ của ta” ( Ngữ Văn 7- Tập một)
Bước3: Bố cục bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học:
Phần mở đầu: Có thể giới thiệu một vài nét về tác phẩm; hoàn cảnh tiếp xúc tác phẩm, nêu lên ấn tượng sâu sắc nhất, khái quát nhất của mình khi đọc, khi xem tác phẩm ấy. Mở bài hay nhất được hai yêu cầu: Tính khái quát và tính định hướng.
Phần thân bài: lần lượt nêu lên những cảm nghĩ của riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man dàn đều mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm.
Trình bày thành các đoạn văn, các đoạn văn lần lượt từ ý a đến b, c.. giữa các đoạn phải có sự liên kết giữa các ý.
Phần kết bài: Nêu lên cảm nghĩ chung, có liên tưởng mở rộng. Tránh dài dòng, trùng lặp và đơn điệu.
Bước 4: Thao tác cơ bản:
Để viết một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học trước tiên phải tìm hiểu kĩ về tác phẩm . Thứ nhất là hoàn cảnh xuất xứ tác phẩm, bao gồm thời gian ra đời tác phẩm, gắn liền với sự kiện nào trong lịch sử, hay bối cảnh xã hội của tác phẩm đó như thế nào .có hiểu được những vấn đề đó mới hiểu được cảm xúc của nhân vật trữ tình trong tác phẩm từ đó bộc lộ cảm xúc về tác phẩm. Thứ hai là nắm được thể loại của tác phẩm , đặc sắc vể thể loại. Thứ ba là tìm hiểu tác phẩm đó viết với đề tài gì, hay chủ đề tư tưởng mà tác giả đặt ra trong tác phẩm .
Thứ tư mới là biểu cảm về một tác phẩm văn học, biểu cảm ở đây không thể là nói chung chung mà phải rất cụ thể, phải chỉ ra được yêu thích, thú vị ở chỗ nào. Nghĩa là phải phân tích và trích dẫn, phân tích trích dẫn là thao tác quan trọng nhất trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học .
Có lúc phải khen, chê. Khen, chê chính là phải viết lời bình. Khen, chê trên cơ sở yếu tố nghệ thuật chứ không phải tùy tiện. Giáo viên qua các bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em biết bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài phát biểu cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Bên cạnh việc phân tích trích dẫn nghệ thuật ngôn từ của tác phẩm, một thao tác rất quan trọng trong bài văn biểu cảm về văn học đó là sự tưởng tượng, học sinh có thể tưởng tượng mình ở vị trí của nhân vật trữ tình, trong bối cảnh của tác phẩm từ đó bộc lộ những suy nghĩ cảm xúc của mình về nhân vật về nội dung, ý nghĩa của tác phẩm hoặc đồng cảm chia sẻ tâm tư tình cảm của người viết.
Trong bài viết phải biết liên tưởng, so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng văn học khác.Học sinh có thể dựa trên vốn sống, vốn hiểu biết của mình về các tác phẩm văn học có chung tư tưởng tình cảm với tác phẩm văn học là đối tượng của bài văn biểu cảm để từ đó có sự liện tưởng và so sánh. Ví dụ có thể liên tưởng, so sánh về hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, sử dụng từ, biện pháp tu từ, hình tượng nhân vật trong cùng một tác giả hoặc giữa các tác giả có mối liên hệ với nhau. Khi học sinh phát biểu cảm nghĩ về cụm từ “ta với ta” trong bài thơ “ Qua Đèo Ngang” ( Bà huyện Thanh Quan” thì có thể so sánh tới cụm từ “ ta với ta” trong tác phẩm “ Bạn đến chơi nhà” ( Nguyễn Khuyến ). Hoặc khi phát biểu cảm nghĩ về âm thanh tiếng suối trong bài thơ “ Cảnh khuya” ( Hồ Chí Minh) thì nên so sánh với âm thanh tiếng suối của bài thơ “ Bài ca Côn Sơn” ( Nguyễn Trãi). Hoặc khi phân tích câu thơ ba bốn ta có thể liên hệ tới những bài thơ nói về những đêm không ngủ của Bác ví dụ như bài thơ Đêm nay Bác không ngủ ( Minh Huệ) hay bài thơ Không ngủ được ( Hồ Chí Minh) Từ việc so sánh này để người đọc thấy được cái hay của mỗi tác phẩm.
Viết lời bình, liên tưởng, tưởng tượng so sánh là những cách lập ý cơ bản khi viết bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học. Qua những thao tác ấy cảm xúc của người viết sẽ bộc lộ rõ nét, tình cảm chân thật của người viết về tác phẩm sẽ tác động được đến trái tim, tâm hồn của người đọc, người nghe khiến họ rung cảm yêu mến tác phẩm văn học đó hơn.
Các yếu tố miêu tả và tự sự trong văn biểu cảm :
Trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học yếu tố tự sự dùng để nêu dẫn chứng gián tiếp, để tóm tắt các tác phẩm , văn liệu hoặc kể kỉ niệm có liên quan đến tác phẩm
Yếu tố miêu tả dùng khi hình dung liên tưởng , tưởng tượng cảnh trong tác phẩm hoặc miêu tả cảm xúc của người đọc.,,
Luyện tập về văn biểu cảm tác phẩm văn học:
Để nắm vững và củng cố tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm, không phải chỉ biết, hiểu, học thuộc lòng mà quan trọng hơn là phải biết làm – biết thực hành – biết sáng tạo.
Mặt khác chúng ta đều biết Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp – thực hành. Việc thực hành cũng cần theo qui trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến tổng hợp; từ việc làm dàn bài, viết ngắn đến viết dài – thành văn hoàn chỉnh.
Việc thực hành- luyện tập phải được thường xuyên, liên tục; phải được kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm; phải có yêu cầu, nghiêm túc song cũng cần phải động viên, khích lệ.
Sau đâ

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_7_viet_bai_van.docx
  • pdfNgữ_văn_Nguyễn_Bích_Ngọc_thcsthaithinh.pdf