Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự có kết hợp yếu tố nghị luận cho học sinh lớp 9 qua tiết 60: "luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Ngữ văn 9, tập I)

Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự có kết hợp yếu tố nghị luận cho học sinh lớp 9 qua tiết 60: "luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Ngữ văn 9, tập I)

 Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống, đặc biệt là trong sự phát triển tư tưởng tình cảm của con người.

 Ngữ văn là một môn học thuộc bộ môn khoa học xã hội, có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời, môn Ngữ văn có mối quan hệ đặc biệt đối với các môn học khác; học tốt môn học này sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và ngược lại, các môn học khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Vị trí đó cũng toát lên yêu cầu cần tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn kiến thức sách vở với thực tiễn cuộc sống hết sức phong phú, sinh động trong việc dạy và học Ngữ văn.

 Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, Tập làm văn là phân môn giáo viên khó dạy và học sinh ngại học nhất. Nhưng đó lại là phân môn rất quan trọng, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói : “Dạy Tập làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói”. và đây cũng chính là nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn trong nhà trường.

Hơn nữa sách giáo khoa mới coi phần Tập làm văn là sự tổng hợp của ngữ và văn (tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ - hiểu mới (tích hợp đồng tâm), cũng như đảm bảo truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học (tích hợp dọc). Khi làm bài tập ở phân môn Tập làm văn, học sinh phải huy động kiến thức Tiếng Việt để viết đúng chính tả, viết câu đúng ngữ pháp, phù hợp với phong cách văn bản nhằm đạt được yêu cầu của đề bài mà giáo viên muốn đặt ra. Như vậy, Tập làm văn là một môn học mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Ngữ văn THCS nói riêng.

 

doc 26 trang thuychi01 14421
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự có kết hợp yếu tố nghị luận cho học sinh lớp 9 qua tiết 60: "luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Ngữ văn 9, tập I)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ 
CÓ KẾT HỢP YẾU TỐ NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 9 
QUA TIẾT 60: "LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ CÓ 
SỬ DỤNG YẾU TỐ NGHỊ LUẬN" (NGỮ VĂN 9, TẬP I)
 Người thực hiện: Lê Thị Sinh
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THCS Bắc Lương - Thọ Xuân
 SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lý do chọn đề tài 
1
1.2
Mục đích nghiên cứu 
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
4
2.3
Các kinh nghiệm
6
2.3.1
Đối với giáo viên
6
2.3.2
Đối với học sinh
8
2.3.3
Áp dụng vào bài giảng cụ thể
8
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
16
3
KẾT LUẬN
20
3.1
Kết luận
20
3.2
Bài học kinh nghiệm
21
3.3
Kiến nghị
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
 Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống, đặc biệt là trong sự phát triển tư tưởng tình cảm của con người. 
 Ngữ văn là một môn học thuộc bộ môn khoa học xã hội, có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời, môn Ngữ văn có mối quan hệ đặc biệt đối với các môn học khác; học tốt môn học này sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và ngược lại, các môn học khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Vị trí đó cũng toát lên yêu cầu cần tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn kiến thức sách vở với thực tiễn cuộc sống hết sức phong phú, sinh động trong việc dạy và học Ngữ văn.
 Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, Tập làm văn là phân môn giáo viên khó dạy và học sinh ngại học nhất. Nhưng đó lại là phân môn rất quan trọng, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói : “Dạy Tập làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói”... và đây cũng chính là nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn trong nhà trường.
Hơn nữa sách giáo khoa mới coi phần Tập làm văn là sự tổng hợp của ngữ và văn (tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ - hiểu mới (tích hợp đồng tâm), cũng như đảm bảo truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học (tích hợp dọc). Khi làm bài tập ở phân môn Tập làm văn, học sinh phải huy động kiến thức Tiếng Việt để viết đúng chính tả, viết câu đúng ngữ pháp, phù hợp với phong cách văn bản nhằm đạt được yêu cầu của đề bài mà giáo viên muốn đặt ra. Như vậy, Tập làm văn là một môn học mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Ngữ văn THCS nói riêng. 
 Nhưng thật đáng tiếc, hiện nay xã hội càng phát triển thì vai trò của môn Ngữ văn lại càng giảm đi trong suy nghĩ của học sinh và trong nhận thức của các bậc phụ huynh. Họ đều cho rằng học Văn sẽ phải học những môn xã hội (như môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân) và sẽ ảnh hưởng đến việc chọn ngành, nghề của con cái họ sau này. Chính vì thế mà một thực tế dễ thấy là các em học sinh thường học yếu những môn tự nhiên thì bắt buộc mới phải theo học môn Ngữ văn và các môn xã hội. Trong khi đặc trưng của môn học này lại rất cần đến sự ham thích, sự say mê thực sự. Nghĩ đến điều này là một giáo viên dạy Ngữ văn, thật sự tôi rất băn khoăn.
 Đã gần mười năm, tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9. Tôi nhận thấy mỗi khi thầy cô giảng bài học sinh rất thích nghe và bộc lộ những cảm nhận của mình. Nhưng các em lại ngại viết đoạn, viết bài, thậm chí còn bộc lộ nhiều thiếu xót, vụng về trong diễn đạt hay lúng túng khi bày tỏ tình cảm, cảm xúc trước một vấn đề, đối tượng. Khi hành văn, học sinh còn lẫn lộn, chưa làm nổi bật được đặc trưng kiểu bài mà đề yêu cầu. Các em thực sự gặp khó khăn khi kết hợp các phương thức biểu đạt trong một kiểu bài cụ thể. Trong khi chương trình Ngữ văn 9 đòi hỏi các em phải thành thạo các kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng thực hành viết bài, viết đoạn. Chính vì thế mà số lượng tiết luyện tập, thực hành Tập làm văn theo phân phối chương trình tương đối nhiều (chiếm: 4 tiết/ học kì ở phần Luyện tập và 4 bài viết thực hành Tập làm văn/ học kì). Thậm chí có những tiết đòi hỏi học sinh vừa phải tích hợp "trong từng thời điểm", ở một vài tiết học (tích hợp ngang), vừa phải tổng hợp kiến thức của các kiểu bài đã học từ những năm học trước (tích hợp dọc). Ví dụ như tiết học mà tôi muốn bàn đến trong đề tài này: "Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận". (Tiết 60, Ngữ văn 9, tập 1). Thái độ, kĩ năng của học sinh cũng gây ra không ít những khó khăn cho giáo viên mỗi khi dạy các tiết luyện tập phân môn Tập làm văn. Dẫn đến một số thầy cô có tư tưởng ngại dạy, và cũng thật hiếm có giáo viên chọn dạy tiết học này để thao giảng.
Xuất phát từ nhận thức về vai trò quan trọng của việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung, tiết luyện tập nói riêng và thực trạng chất lượng viết đoạn văn (bài văn) tự sự của học sinh, tôi xin đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ khi dạy tiết 60 "Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận"
(Ngữ văn 9, Tập 1), nhằm giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự có kết hợp với yếu tố nghị luận. Đây là sự đúc kết kinh nghiệm nhiều năm trong quá trình giảng dạy và học tập kinh nghiệm của bản thân, đồng nghiệp; qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo; tìm hiểu thực tế học tập của học sinh. 
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong suốt chương trình bậc học THCS, học sinh đã được học kiểu bài tự sự với nhiều mức độ khác nhau. Bởi tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống. Mà cuộc sống thì hết sức phong phú, với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, số phận nhân vật, các mẫu người mà ta gặp thường ngày. Để khắc họa kiểu nhân vật hay triết lí, suy nghĩ, trăn trở về lí tưởng sống, về tình yêu ghét, vui buồn hoặc để thể hiện một quan điểm, lập trường, cách nhìn nhận, đánh giá, một câu nói triết lí trong một câu chuyện, người ta có thể vận dụng kết hợp yếu tố nghị luận. Vì vậy, chương trình Ngữ văn lớp 9 tiếp tục rèn luyện cho các em kĩ năng viết đoạn văn tự sự ở mức độ cao hơn khi kết hợp với yếu tố nghị luận.
Yếu tố nghị luận được kết hợp trong văn tự sự chỉ là yếu tố phụ trợ, đơn lẻ, lồng ghép trong một tình huống, một sự việc hay một nhân vật để nhằm tô đậm sự việc, kiểu nhân vật, tính cách nhân vật, làm cho tự sự thêm sâu sắc. 
Nhưng thực tế vì nhiều lí do, học sinh lớp 9 ở trường tôi trực tiếp giảng dạy hay ở một số trường bạn khi đi dự giờ vẫn còn nhiều hạn chế khi viết kiểu bài này. 
Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, cùng với việc dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp, tôi luôn trăn trở trước thực trạng chất lượng viết đoạn văn (bài văn) tự sự của học sinh. Vì vậy, từ một tiết dạy cụ thể, tiết 60: "Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Ngữ văn 9, tập 1) bản thân phân tích rõ thực trạng chất lượng viết đoạn văn tự sự của học sinh hiện nay, đồng thời đối chiếu với phương pháp giảng dạy của giáo viên, từ đó đề ra kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy, cách thức rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự cho học sinh, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học, giải quyết tình trạng kém chất lượng trong dạy học văn hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp dạy - học thường gặp tiết 60: "Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Ngữ văn 9, tập 1)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện giải pháp tôi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
1.4.1. Nghiên cứu tài liệu: SGK, SGV và các tài liệu có liên quan.
1.4.2. Phân tích đối chiếu: giữa chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với bộ môn Ngữ văn lớp 9 bậc THCS và những sản phẩm (viết đoạn văn) trên lớp của học sinh.
1.4.3. Giả thiết khoa học: Đưa ra những giải pháp, những đề xuất có tính khoa học để bản thân và đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng.
1.4.4. Phương pháp qua theo dõi, thu thập, tổng hợp thông tin: Trò chuyện, trao đổi, theo dõi, tích lũy, dự giờ thăm lớp cùng với đồng nghiệp, học sinh và thực tế giảng dạy trên lớp.
2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Từ năm 1998, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai dự án phát triển giáo dục THCS nhằm đổi mới một cách toàn diện bậc học này. Thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH khóa 10, ngày 9/12/2000 của Quốc hội, tháng 9 năm 2002, cả nước bắt đầu dạy học theo chương trình và SGK THCS mới từ lớp 6. Môn Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông và cũng là môn học có nhiều thay đổi nhất trong việc đổi mới chương trình, SGK, phương pháp đến hình thức kiểm tra và đánh giá kết quả học tập. Nhiều vấn đề được đặt ra khi phải tiếp cận một chương trình mới, trong đó vấn đề đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh là vấn đề được đặt lên hàng đầu. 
Lớp 9 là lớp cuối của vòng II, đồng thời cũng là lớp cuối cùng của cấp THCS nên lại càng có một vị trí hết sức quan trọng: vừa phải tổng kết được những kiến thức, kĩ năng đã học tập, rèn luyện trong bốn năm học, vừa phải chuẩn bị cho kì thi lên THPT hoặc đi vào cuộc sống. Vì thế tập làm văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 9 là sự kế thừa và nâng cao kĩ năng làm văn thể loại này mà học sinh đã được học, được rèn luyện từ các lớp dưới. Cùng với miêu tả, biểu cảm, tự sự thuộc dạng sáng tác văn học. Đặc trưng cơ bản của kiểu bài này là kích thích trí tưởng tưởng phong phú, xây dựng óc quan sát thực tế đầy tinh tế cho học sinh đối với những sự việc, hiện tượng trong đời sống gia đình, nhà trường và xã hội, đồng thời học sinh biết bày tỏ quan điểm, cách nhìn nhận đánh giá về sự việc, hiện tượng cuộc sống, qua đó bồi đắp tư tưởng, thái độ và những tình cảm tốt đẹp về con người, quê hương, đất nước.
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình viết những đoạn văn, bài văn hay (nói đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ của nhà trường). Hay trước hết phải đúng yêu cầu của đề bài, viết đúng thể loại, đúng phương thức biểu đạt khi có yêu cầu kết hợp, đúng kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách, Đồng thời, học sinh cũng phải biết thể hiện sự nhận thức đúng đắn với cuộc sống xung quanh, thể hiện tốt tư duy lô gic, có óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú mà vẫn chân thực và sinh động. Tuy nhiên, giúp học sinh làm được như vậy không phải là dễ. 
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
2.2.1. Thực trạng chung
2.2.1.a. Về phía giáo viên.
Bản thân là giáo viên Ngữ văn trực tiếp giảng dạy trên lớp. Được nhà trường và chuyên môn tín nhiệm, tôi thường xuyên đi dự giờ thăm lớp cũng như dự giờ, đánh giá các tiết thao giảng của các đồng nghiệp trường mình và trường bạn, tôi thấy nổi lên một số vấn đề khi dạy các tiết luyện tập nói chung và tiết "Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận" (Tiết 60, Ngữ văn 9, tập 1) như sau: 
Thứ nhất: Bên cạnh những thầy cô giảng dạy nhiệt tình, có trách nhiệm cao trong chuyên môn vẫn còn có những thầy cô có tâm lí e ngại khi chọn dạy hay cử dạy các tiết luyện tập, thực hành trong phân môn Tập làm văn, hơn nữa lại là tiết luyện tập, thực hành viết đoạn văn tự sự có kết hợp yếu tố nghị luận. Họ cho rằng đây là tiết dạy khó và không hấp dẫn người dự, người học bởi giáo viên vừa hướng dẫn các em nhận diện yếu tố nghị luận có trong văn bản cho sẵn vừa phải giúp các em làm các bài tập thực hành theo yêu cầu trong SGK. Hơn nữa việc sử dụng yếu tố nghị luận trong đoạn văn lại đòi hỏi trình độ phát hiện, lập luận, chỉnh sửa cũng như sự am hiểu đời sống có tính chất khái quát, tổng kết của một số giáo viên còn hạn chế. 
Thứ hai: Giáo viên chưa đảm bảo kết hợp, tích hợp giữa dạy Văn học- Tiếng Việt- Tập làm văn và kiến thức đời sống xã hội, cũng như chưa có tác động thích đáng cho Tập làm văn.
Thứ ba: GV chưa giành nhiều thời gian cho nghiên cứu trước bài giảng, chưa hoàn toàn làm chủ kiến thức trong SGK nên chưa giúp học sinh nắm vững kiến thức tự sự, kiến thức nghị luận trong chương trình, trong tiết dạy, cũng như việc rèn luyện kỹ năng vận dụng linh hoạt các kiến thức đó vào viết đoạn văn.
Thứ tư: Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc đôn đốc nhắc nhở và kiểm tra việc ôn bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh trước tiết luyện tập. Chính vì vậy mà trong các tiết luyện tập học sinh thường cắm cúi viết đoạn văn cho đến khi hết giờ mà có ít sản phẩm, thậm chí là không có sản phẩm được đọc, được nhận xét hay chỉnh sửa trên lớp.
Thứ năm: Nhiều giáo viên nhận thức chưa đúng về các tiết luyện tập. Có nhiều giáo viên cho rằng vai trò người dạy ở các tiết học này là quá nhàn và tẻ nhạt bởi giáo viên chỉ chờ học sinh ngồi viết nháp đoạn văn, sau khi HS hoàn thành thì gọi từ hai đến ba em đọc (hay cho học sinh lên bảng chép lại), gọi một đến hai em nhận xét và sau cùng giáo viên nhận xét chung chung, qua loa rồi cho điểm mà không có sự khích lệ mặt làm được hay uốn nắn, chỉnh sửa những mặt chưa được, còn thiếu xót của học sinh. 
Thứ sáu: Giờ Tập làm văn với tiết luyện tập, giáo viên chưa xác định đúng phương pháp dạy học thực sự phù hợp, tối ưu; chưa nghiên cứu kĩ chuẩn kiến thức - kĩ năng, xác định đầy đủ mục đích yêu cầu cần đạt, kĩ năng cần rèn luyện trong từng phần, từng bài tập; việc linh hoạt các khâu lên lớp và bố trí thời lượng chưa hợp lí; giáo viên còn nặng về lí thuyết (phần nhận diện) mà chưa giành nhiều thời gian cho luyện tập, thực hành; giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc phát huy tinh thần tích cực chủ động của học sinh trong và sau tiết học. Đặc biệt khi xây dựng dàn ý cho đoạn văn tự sự, giáo viên thường thiên về cảm nhận chủ quan khi gợi ý hay uốn nắn, chỉnh sửa cho học sinh theo ý mình mà không khích lệ, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh, khiến cho cảm xúc của các em bị gò bó.
 2.2.1.b. Về phía học sinh.
Hiện nay rất ít học sinh say mê học văn. Số học sinh yêu thích và có năng lực cảm thụ văn học, năng khiếu văn chương thực sự rất hiếm. Học sinh chưa có thái độ học tập đúng đắn với bộ môn này; chưa có thói quen chuẩn bị bài kĩ lưỡng trước khi lên lớp, nếu có thì sao chép chép hay đánh dấu một đoạn trong văn mẫu, tài liệu có sẵn; rất nhiều em chưa chịu khó đọc tài liệu tham khảo để mở rộng kiến thức; hay thậm chí còn có một số học sinh quan niệm sai lệch về các tiết luyện tập, thực hành là tiết để chúng được sả hơi (chúng thường nghĩ thầy, cô giáo chỉ gọi những bạn hay xung phong, có học lực khá và lắm tài liệu).
Về ngữ pháp, kĩ năng dùng từ, viết câu của học sinh hiện nay còn bộc lộ nhiều yếu kém. Trong đoạn văn, bài văn của các em có nhiều câu què, câu cụt, câu tối nghĩa. Tình trạng mắc lỗi chính tả, dùng từ sai, thậm chí không có từ nối, câu chuyển ý cũng rất phổ biến. Có bài từ đầu đến cuối các em không sử dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không chính xác.
Tệ hại hơn là học sinh không xác định được mình đang viết cái gì, viết đúng hay sai, hay hay dở, đúng sai, hay dở tới mức nào, các em chỉ biết cắm đầu xuống viết cho đến khi hết giờ.
2.2.2. Những hạn chế chủ yếu của học sinh khi viết đoạn văn tự sự có kết hợp yếu tố nghị luận (Tiết 60, Ngữ văn 9, tập 1).
- HS chưa nắm vững đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự, chưa xây dựng được một câu chuyện có bố cục hoàn chỉnh (có mở đầu, diễn biến và có kết thúc), thậm chí khả năng tư duy lô gic còn hạn chế. Vì vậy, đoạn văn của các em viết ra thường bị hẫng và chưa phù hợp với thực tế cuộc sống cũng như tâm lí xã hội.
- Nhiều học sinh cũng không hiểu và không biết cách đưa yếu tố nghị luận vào đoạn văn tự sự sao cho đúng, cho trúng, cho hay. Bởi trên lớp các em học chưa đến nơi đến chốn; vốn sống, vốn hiểu biết còn nghèo nàn, chính vì vậy mà đoạn văn của các em thiếu tính thuyết phục.
- Đôi khi học sinh không tìm ra được sự việc, tình huống để kể nên giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện còn luẩn quẩn, lòng vòng hoặc đi sâu vào miêu tả nhân vật quá nhiều.
- Học sinh không biết lựa chọn chi tiết tiêu biểu, quan trọng, thậm chí xa rời yêu cầu đề nên thường viết lan man, dài dòng; lời thoại của nhân vật không hợp lí, thiếu lô gic, thậm chí quá vụng về, thô thiển, thiếu tính lịch sự, thẩm mĩ (như sử dụng ngôn ngữ "chợ búa" gay gắt).
- Học sinh chưa biết vận dụng phù hợp, tự nhiên yếu tố nghị luận trong đoạn văn tự sự. Thường các em đưa yếu tố nghị luận chưa khéo léo, tế nhị, diễn đạt dài dòng, lan man không khái quát, vì vậy vô tình đã làm giảm đi tính giáo dục cũng như giá trị của câu chuyện.
- Đặc biệt hơn, có rất nhiều học sinh còn sai hình thức viết đoạn văn. Nghĩa là, các em đánh đồng hoặc không phân biệt giữa yêu cầu viết đoạn văn với viết bài văn. Khi yêu cầu học sinh dựng đoạn thì các em lại viết thành bài văn và ngược lại (với độ ngắn - dài tùy thích) hoặc ngắt dòng tùy tiện trong khi chưa thành câu, thành đoạn. Hơn nữa ở tiết học này tình trạng học sinh mắc lỗi này diễn ra nhiều hơn, bởi các bài tập ở tiết này yêu cầu người viết kể lại một câu chuyện có đưa ra ý kiến, quan điểm của mình. Cho nên có nhiều em viết đoạn văn thành bài văn dài đến hai, ba trang giấy. 
Sau đây là kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của năm học 2016 -2017 khi chưa áp dụng giải pháp như sau:
Đầu học kì I 
 năm học 2016 - 2017
Sĩ số HS
(cả 2 lớp)
Trung bình trở lên
Kết quả khi chưa áp dụng giải pháp
60
Số lượng
Tỉ lệ (%)
28
46,66
 Từ thực trạng và kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học, để giúp các em đạt hiệu quả cao trong tiết luyện tập viết đoạn văn tự sự trong phân môn Tập làm văn nói chung, tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp, với mong muốn học sinh có kĩ năng viết tốt đoạn văn tự sự khi kết hợp với phương thức nghị luận. Để kiểm tra tính hiệu quả và khoa học của đề tài, tôi đã triển khai đề tài này trong năm học 2016 - 2017 và đã thu được một số kết quả nhất định.
2.3. CÁC KINH NGHIỆM THỰC HIỆN.
2.3.1. Đối với giáo viên.	
* Đổi mới phương pháp theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh.
Dạy học môn Ngữ văn cũng như nhiều môn học khác, giáo viên cần thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động nhận thức của học sinh. Tức là giáo viên cần tăng cường tổ chức các hoạt động cho các em, chú trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học ở nhà hay trên lớp một cách chủ động, tăng cường hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm, làm cho các em tự đánh giá được năng lực và kết quả thực hành của mình.
* Cần nắm chắc các phương pháp giảng dạy để áp dụng linh hoạt, phù hợp trong từng tiết dạy.
Nghĩa là, ngoài các phương pháp phổ biến như phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp, hoạt động hợp tác, giáo viên cần phối kết hợp tốt một số kĩ năng và kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm; kĩ thuật "viết tích cực". Hơn nữa giáo viên cũng cần sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, thông báo, giải thích, trò chơi trong tiết học để gây sự hứng thú nơi người học. 
* Áp dụng phương pháp giao việc trước và sau tiết học.
Để thành công một tiết luyện tập trên lớp, đòi hỏi giáo viên phải giao nhiệm vụ trước và sau tiết học cho cá nhân học sinh hay từng nhóm, tổ cần chuẩn bị kĩ lưỡng việc gì, thảo luận và hoàn thành việc gì ? Điều đó sẽ giúp HS tăng cường khả năng tự học và giúp giáo viên tiết kiệm thời gian thảo luận và viết trên lớp. Sau tiết học, các em tiếp tục tìm hiểu sâu sắc và toàn diện hơn vấn đề đã học, từ đó các em có thể áp dụng vào trong thực tiễn, phục vụ chính đời sống của bản thân. 
* Áp dụng kĩ thuật "bản đồ tư duy"
Đối với các tiết luyện tập có đính kèm lí thuyết, giáo viên cần áp dụng kĩ thuật "bản đồ tư duy" để hướng dẫn học sinh tổng hợp kiến thức của bài học tiết này với bài học tiết trước để nhằm giúp các em ghi nhớ và vận dụng tốt vào phần luyện tập, thực hành. 
* Các bước lên lớp cũng cần phải linh hoạt. 
Giáo viên nên đặc biệt chú trọng đến hoạt động giao tiếp, tương tác. Bởi đây là một biện pháp phát huy vai trò chủ thể của học sinh một cách thực sự. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, người học tự khám phá lĩnh hội tri thức.
* Đọc và làm chủ sách giáo khoa, làm chủ kiến thức bài học.
Khi giảng giáo viên cần thoát li h

Tài liệu đính kèm:

  • docren_luyen_ki_nang_viet_doan_van_tu_su_co_ket_hop_yeu_to_nghi.doc