Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh yếu, kém lớp 12 bậc trung học phổ thông
Phụ đạo học sinh yếu, kém nói riêng là công việc khó khăn và đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Quá trình giảng dạy nói chung, phụ đạo học sinh yếu, kém nói riêng phải tiến hành song song 2 nhiệm vụ: Bồi dưỡng kiến thức và hướng dẫn học sinh bộc lộ năng lực, thể hiện kiến thức để giải quyết các đề cụ thể. Trong quá trình ấy, khâu rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh thực sự là khó, khổ, rất cần sự tận tâm và công phu của người thầy. Hiện nay, trong phân môn làm văn kiểu bài nghị luận xã hội tuy không mới nhưng thực tế giảng dạy còn gặp nhiều vướng mắc. Với chúng tôi, những người trực tiếp làm công tác giảng dạy nói chung và phụ đạo học sinh yếu nói riêng, từ thực tiễn giảng dạy xin mạnh dạn trao đổi những gì đã và đang làm.
Vấn đề làm văn NLXH đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc đề thi tuyển sinh các cấp, đề kiểm tra các cấp. Vì vậy, rèn luyện làm văn nghị luận xã hội là một đòi hỏi thực sự cần thiết đối với học sinh trung học nói chung, đối với học sinh yếu, kém nói riêng.
Nghị luận xã hội là dạng bài đưa người học về gần hơn với cuộc sống, đồng thời đòi hỏi ở người học khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Dạng bài này khiến người viết phát huy năng lực bản thân từ tư duy, suy nghĩ, huy động vốn hiểu biết đến năng lực trình bày một vấn đề xã hội nào đó sao cho giàu sức thuyết phục. Chúng ta biết rằng nếu thiếu năng lực thuyết phục thì khó thành đạt trong cuộc sống. Đây là thực tế cũng là yêu cầu khá cao, các em học sinh vừa thích thú song cũng gặp không ít khó khăn khi giải quyết những đề bài, những vấn đề của cuộc sống xã hội cụ thể.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT VĨNH LỘC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH YẾU, KÉM LỚP 12 BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Anh Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2019 Mục lục 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm2 2. Nội dung 3 2.1. Cơ sở lí luận 3 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 3 2.2.1. Thuận lợi 3 2.2.2. Khó khăn 3 2.2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên 4 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện 4 2.3.1. Giải pháp 5 2.3.2. Tố chức thực hiện 9 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 12 2.4.1. Sau khi vận dụng đề tài vào dạy - học 12 2.4.2. Kết quả khảo sát qua đề kiểm tra 13 3. Kết luận, kiến nghị 16 3.1. Kết luận 16 3.2. Kiến nghị với các cấp lãnh đạo ngành Giáo dục 16 Tài liệu tham khảo. 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Phụ đạo học sinh yếu, kém nói riêng là công việc khó khăn và đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Quá trình giảng dạy nói chung, phụ đạo học sinh yếu, kém nói riêng phải tiến hành song song 2 nhiệm vụ: Bồi dưỡng kiến thức và hướng dẫn học sinh bộc lộ năng lực, thể hiện kiến thức để giải quyết các đề cụ thể. Trong quá trình ấy, khâu rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh thực sự là khó, khổ, rất cần sự tận tâm và công phu của người thầy. Hiện nay, trong phân môn làm văn kiểu bài nghị luận xã hội tuy không mới nhưng thực tế giảng dạy còn gặp nhiều vướng mắc. Với chúng tôi, những người trực tiếp làm công tác giảng dạy nói chung và phụ đạo học sinh yếu nói riêng, từ thực tiễn giảng dạy xin mạnh dạn trao đổi những gì đã và đang làm. Vấn đề làm văn NLXH đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc đề thi tuyển sinh các cấp, đề kiểm tra các cấp. Vì vậy, rèn luyện làm văn nghị luận xã hội là một đòi hỏi thực sự cần thiết đối với học sinh trung học nói chung, đối với học sinh yếu, kém nói riêng. Nghị luận xã hội là dạng bài đưa người học về gần hơn với cuộc sống, đồng thời đòi hỏi ở người học khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Dạng bài này khiến người viết phát huy năng lực bản thân từ tư duy, suy nghĩ, huy động vốn hiểu biết đến năng lực trình bày một vấn đề xã hội nào đó sao cho giàu sức thuyết phục. Chúng ta biết rằng nếu thiếu năng lực thuyết phục thì khó thành đạt trong cuộc sống. Đây là thực tế cũng là yêu cầu khá cao, các em học sinh vừa thích thú song cũng gặp không ít khó khăn khi giải quyết những đề bài, những vấn đề của cuộc sống xã hội cụ thể. 1.2. Mục đích nghiên cứu Khi tiến hành đề tài tôi đã dựa trên tình hình giảng dạy và học tập thực tế của giáo viên và học sinh trong các. Từ đó, đưa ra những cách thức, phương pháp tập huấn, bồi dưỡng cho phù hợp với đối tượng học sinh và với mục đích giáo dục. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này nhằm nghiên cứu về Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh yếu, kém lớp 12 Để thử nghiệm đề tài tôi chọn đối tượng học sinh yếu Trường THPT Vĩnh Lộc, Năm học 2018-2019 1.4. Phương pháp nghiên cứu + Về lí thuyết - Nghiên cứu tài liệu - Nắm vững cấu trúc đoạn văn - Nắm vững mục tiêu, phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện + Về thực tiễn - Xác định đối tượng học sinh áp dụng đề tài (Học sinh học sinh yếu về cách viết đoạn văn nghị luận xã hội lớp 12) - Kiểm tra sự tiếp thu của học sinh trong quá trình thực nghiệm - Đánh giá, đưa ra sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp + Các phương pháp khác: Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp thống kê, xử lý số liệu, so sánh, tổng hợp, phân loại... 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Viết về đề tài này có rất nhiều tác giả, bài viết đề cập đến nếu có chỉ dành cho đối tượng học sinh khá giỏi còn với bài viết này tôi chỉ đi đề cập đến đối tượng hoc yếu. Mặt khác, sáng kiến cũng đi sâu rèn các rèn các kỹ năng nhận biết, phán đoán đề thi; kỹ năng diễn đạt cho học sinh yếu. Vì vậy, sau quá trình thực nghiệm, tôi đã mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về vấn đề Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh yếu lớp 12. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão thì giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả các quốc gia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị luận xã hội vào chương trình Ngữ văn bậc trung học hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục trên. “Nghị luận xã hội là phưong pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân”. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh THPT, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ. Từ năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa vào đề thi môn văn kì thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh vào các trường Cao đẳng, Đại học một câu nghị luận xã hội, chiếm tỉ lệ 30% trong tổng số đề ra. Những vấn đề nghị luận xã hội được đưa ra cho học sinh bàn bạc từ đó đến nay đều rất phong phú, đa dạng; đề cập đến tất cả các phương diện của đời sống. Vừa có dạng đề về tư tưởng đạo lí lại vừa có dạng đề về các hiện tượng đời sống. Thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội trong phân phối chương trình THPT theo qui định của Bộ Giáo dục là quá ít ỏi, ở lớp 12 cả Ban cơ bản và Ban Khoa học Xã hội nhân văn đều chỉ có 2 tiết lí thuyết về cách làm bài nghị luận xã hội: một cho dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, một cho dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Cả năm học 12 các em chỉ có hai bài viết rèn luyện nghị luận xã hội, còn lại thì tập trung vào nghị luận văn học. Thực tế đó khiến học sinh không có điều kiện để rèn luyện nghị luận xã hội một cách thường xuyên dẫn tới kết quả đạt được không cao. Học sinh THPT đều ở độ tuổi mới lớn, chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế đời sống đa sắc, đa chiều, vốn kiến thức xã hội còn ít ỏi. Nhiều em cách nhìn nhận vấn đề còn ấu trĩ, thậm chí lệch lạc do đó để hiểu đúng, hiểu sâu bản chất và bàn luận thấu đáo một vấn đề xã hội là điều không đơn giản đối với các em. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.2.1. Thuận lợi Từ khi đổi mới chương trình thay sách SGK (2006 -2007), SGK từ THCS đến THPT được chuyển tiếp liền mạch thống nhất trong hệ thống kiến thức môn học. Được chỉ đạo thống nhất của BGD&ĐT, Sở GD thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn hàng năm cho giáo viên với mục đích giúp cho giáo viên nắm vững tinh thần đổi mới của chương trình sách giáo khoa và dạy học tốt hơn. Bắt đầu từ khi đổi mới chương trình thay SGK, các bộ SGK, SGV được in ấn kịp thời, các phương tiện truyền thông; báo, đài, internet rộng khắp đã giúp học sinh chủ động, hứng thú hơn trong việc học tập Ngữ văn. Hiện nay, với sự phát triển của đời sống xã hội thì nghị luận xã hội đóng vai trò quan trọng. Cái hay của dạng văn này là học sinh không phải học thuộc làu làu, không phụ thuộc vào tài liệu mà được tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của bản thân về một vấn đề cụ thể. Vì vậy, học sinh cũng có hứng thú làm bài nghị luận xã hội. 2.2.2. Khó khăn Bài nghị luận xã hội đóng vai trò quan trọng, học sinh cũng được rèn luyện nhiều nhưng kết quả bài làm của học sinh chưa thực sự tốt. Điều này có nhiều nguyên nhân: - Do tuổi đời học sinh còn ít nên nhận thức và sự đánh giá nhìn nhận vấn đề xã hội của các em còn hạn chế, chưa toàn diện chưa có chiều sâu. - Việc tìm hiểu văn nghị luận xã hội trong nhà trường còn hạn chế. Ở khối 10 phần làm văn chỉ ôn lại văn tự sự, thuyết minh. Ở khối 11 phần nghị luận xã hội mang tính tích hợp với một số văn bản đọc hiểu. Chương trình khối 12 nghị luận xã hội được tái hiện qua hai bài lí thuyết: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý và hiện tượng đời sống. Các bài nghị luận xã hội học sinh được viết ít. Trong giảng dạy, giáo viên chỉ chủ yếu rèn cho học sinh kỹ năng làm văn nghị luận văn học vì liên quan trực tiếp đến các tác phẩm trong chương trình. Vì thế học sinh còn mơ hồ về phương pháp làm nghị luận xã hội. Trước năm 2006, học sinh chủ yếu viết bài văn nghị luận xã hội thành một bài văn với bố cục ba phần. Năm 2017, với yêu cầu đổi mới trong cấu trúc đề thi của Bộ GD&ĐT, yêu cầu học sinh viết một đoạn văn nghị luận xã hội, điều này khiến nhiều em còn lúng túng, bỡ ngỡ. Viết một bài văn nghị luận xã hội đối với các em đã khó, nay phải viết một đoạn văn lại càng khó hơn đặc biệt là với những em học yếu, kém. 2.2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên Đầu năm học 2018 – 2019, tôi dạy lớp 12C6, 12C7, 12C8 Trường THTP Vĩnh Lộc., tôi tiến hành kiểm tra. Kết quả cho thấy, việc các em vận dụng kiến thức xã hội để trình bày một vấn đề chưa tốt, số lượng bài điểm kém, yếu, điểm trung còn nhiều, điểm khá và giỏi còn khiêm tốn. Kết quả cụ thể như sau: Lớp Sĩ số Loại giỏi Loại khá Loại Tb Loại yếu SL % SL % SL % SL % 12 C6 46 2 4,3 10 21,7 24 52,0 10 22,0 12 C7 47 3 6,4 10 21,3 24 51,0 10 21,3 12 C8 38 1 3,0 8 21,0 19 50,0 10 26,0 Từ thực trạng trên, tôi thấy đây là một vấn đề đáng được quan tâm, nghiên cứu, trao đổi. 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện Chúng tôi quan niệm để làm tốt bài nghị luận xã hội về căn bản có hai yêu cầu và cũng là điều kiện: Kiến thức và kỹ năng. Bởi lẽ, có kiến thức mà không có kỹ năng thì làm sao lập luận vấn đề cho sáng rõ, ngược lại có kỹ năng mà kiến thức không đủ đáp ứng thì bài làm sẽ hời hợt, thiếu sâu sắc, ít thuyết phục. Làm văn rất cần tư duy khoa học, lôgic thêm nữa học sinh rất cần thể hiện niềm say mê qua tích lũy kiến thức. Đối với học sinh việc tích lũy kiến thức văn học là việc làm thường xuyên nhưng việc tích lũy, bồi đắp kiến thức cuộc sống, những hiểu biết xã hội còn bị xem nhẹ. Vì vậy, hướng dẫn của người thầy là hết sức quan trọng. 2.3.1. Giải pháp 2.3.1.1. Củng cố * Khái niệm đoạn văn – Hình thức: Đoạn văn là tập hợp của nhiều câu văn.Bắt đầu bằng chữ viết hoa đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm. Không được phép xuống dòng. - Các câu được liên kết với nhau bằng phép nối, phép thế, phép lặp,Có câu mở, các câu triển khai và câu kết rõ ràng. - Nội dung: Các câu đều tập trung thể hiện vấn đề nghị luận, hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, chặt chẽ, có sức thuyết phục. - Kết cấu: Thường được kết cấu theo cách tổng – phân – hợp, diễn dịch và quy nạp. * Nghị luận xã hội là phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực: chính trị,đạo đức,xã hội làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề nêu ra. Từ đó đưa ra cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống. + Nghị luận về một tư tưởng đạo lý – Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống, nghề nghiệp, ước mơ – Vấn đề về đạo đức, tâm hồn, tính cách: lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn; thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi – Vấn đề về các quan hệ gia đình: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em – Vấn đề về các quan hệ xã hội: tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn – Vấn đề về cách ứng xử, đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống. + Nghị luận về một hiện tượng đời sống Đề tài nghị luận thường gần gũi với đời sống và sát hợp với trình độ nhận thức của học sinh: tai nạn giao thông, hiện tượng môi trường bị ô nhiễm, đại dịch AIDS, những tiêu cực trong thi cử, nạn bạo hành trong gia đình trong học đường, phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi, cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn, những tấm gương người tốt việc tốt, hiện tượng lãng phí, lối sống thờ ơ vô cảm, hiện tượng chạy theo thời thượng, thói dối trá Chúng ta đều thấy, các lĩnh vực xã hội làm đề tài cho bài văn nghị luận xã hội rất đa dạng, nên kiến thức phục vụ cho bài làm của học sinh là rất phong phú. nhưng điều quan trọng là các em phải có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi chép, để vận dụng (giáo viên cần hướng dẫn để học sinh biết để ý, để tâm những vấn đề của đời sống, xã hội) 2.3.1.2. Tích lũy Chúng tôi định hướng cho các em huy động kiến thức từ các nguồn: - Kiến thức từ sách vở: chủ yếu từ báo chí, các loại sách tham khảo về các lĩnh vực của cuộc sống từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về gương người tốt việc tốt " Hạt giống tâm hồn", "Hạt giống hạnh phúc", "Suy nghĩ của những người trẻ",.điều quan trọng cùng các em tìm và lựa chọn sách cần thiết để học, biết cách đọc, hệ thống hóa kiến thức. - Kiến thức từ đời sống: Hiểu biết, tích lũy hoặc từ đời sống hàng ngày của bản thân người viết, yêu cầu các em có thói quen quan sát cuộc sống, những hoạt động, sự việc, những vấn đề từ cuộc sống xung quanh quan trọng hơn là biết suy nghĩ, suy xét những gì mình nghe được, quan sát được. Trên cơ sở đó, biết lựa chọn, nắm bắt lấy bản chất vấn đề. - Kiến thức từ trải nghiệm bản thân, đây sẽ là ví dụ minh họa sống đúng, có sức thuyết phục nếu nó được vận dụng vào bài văn một cách tự nhiên, chân thành. 2.3.1.3. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội Trong các bài văn nghị luận xã hội nói chung, đoạn văn nghị luận xã hội nói riêng các em học sinh phải phát biểu những suy nghĩ nghiêm túc, chín chắn, sâu sắc của mình về một hiện tượng tốt, xấu trong đời sống xã hội, về những vấn đề của cuộc sống từ chân lý vĩnh hằng đến thời sự nóng hổi. Muốn vậy, trước hết các em phải nhận thức đúng vấn đề mà đề bài yêu cầu nghĩa là việc xác định vấn đề phải trúng, vì thế khâu tìm hiểu đề hết sức quan trọng. Theo chúng tôi kỹ năng cần thiết, rèn luyện đầu tiên là kĩ năng nhận diện phân tích đề. 2.3.1.3.1. Kỹ năng nhận diện phân tích đề, tìm ý. Xác định được vấn đề nghị luận là thành công bước đầu đối với bài văn, đoạn văn nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng. Song, cũng không phải học sinh nào cũng có thể xác định được đặc biệt là đối với học sinh yếu lại càng khó xác định được vấn đề nghị luận. * Đọc kỹ đề và tìm hiểu Theo như đề thi mẫu: Phần nghị luận xã hội chủ yếu được lấy từ bài đọc hiểu( hoặc có thể không) và yêu cầu học sinh viết một đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ. Nếu đề nghị luận xã hội nằm trong phần đọc hiểu thì trước hết các em phải tiến hành tìm hiểu các nội dung sau: - Đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được nội dung cốt lõi của đoạn văn bản - Xác định xem phần đọc hiểu bàn về vấn đề gì? – nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc tư tưởng đạo lý hay hiện tượng đời sống. - Xác định được các thao tác lập luận - Xác định hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. - Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào? Diễn dich, quy nạp, hay tổng- phân- hợp Giáo viên nên định hướng cho học sinh viết đoạn văn theo Tổng – Phân – Hợp Đọc đoạn đọc hiểu sau: “Leo lên đỉnh núi không phải là để cắm cờ mà là để vượt qua thách thức tận hưởng bầu không khí và ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn xung quanh. Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhình ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em. Hãy đến Paris để tận hưởng cảm giác đắm chìm trong Paris chứ không phải lướt qua đó để ghi Paris vào danh sách các địa điểm các em đã đi qua và tự hào mình là con người từng trải. Tập luyện những suy nghĩ độc lập, sáng tạo, và táo bạo không phải để mang lại sự thỏa mãn cho bản thân mà là đề đem lại lợi ích cho 6,8 tỉ người trên trái đất của chúng ta. Rồi các em sẽ phát hiện ra sự thật thú vị và vĩ đại mà những kinh nghiệm trong cuộc sống mang lại, đó là lòng vị tha mới chính là điều tốt đẹp nhất mà các em có thể làm cho bản thân mình. Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời thực ra lại đến vào lúc các em nhận ra các em chẳn có gì đặc biệt cả. Bởi tất cả mọi người đêu như thế” . (Trích bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley của thầy Hiệu trưởng Dvid McCullough) Câu nghị luận xã hội được cho là: hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần đọc hiểu: “Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhình ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em”. Như vậy, phần nghị luận xã hội là một ý trong phần đọc hiểu. Vậy phải đọc kỹ phần đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về cách cảm nhận thế giới và thái độ ứng xử văn hóa trước thế giới trước cuộc đời. 2.3.1.3.2. Rèn luyện kỹ năng diễn đạt Bên cạnh việc hiểu đề, xác định đươc vấn đề nghị luận thì việc diễn đạt thành lời văn cũng rất khó đối với các em học yếu. Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng diễn đạt cho các em là khâu hết sức quan trọng đối với những học sinh học yếu. Đối với bài, đoạn văn nghị luận xã hội việc vận dụng phối hợp linh hoạt các thao tác lập luận để giải thích, phân tích, bình luận vấn đề, làm cho vấn đề được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau cũng rất quan trọng. - Lưu ý: Số dòng, số câu cho từng phần: + Mở đoạn: 2-3 câu (có khi chỉ cần 1 câu nếu viết tốt) + Thân đoạn: - Giải thích – khoảng 4 dòng - Bàn luận - khoảng 12 dòng - Mở rộng vấn đề – 4 dòng - Bài học – khoảng 5 dòng + Kết đoạn – khoảng 2 dòng (hoặc có khi gộp luôn vào chỗ bài học) * Xây dựng phần mở đoạn - Phần mở đoạn viết khoảng 1-3 câu, thể hiện cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung vấn đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu. - Nên viết theo hướng: nêu khái quát nội dung và dẫn câu nói vào (hoặc trích cụm từ khóa) Ví dụ theo đề trên ta viết như sau: “Thành công luôn là khát khao của mỗi người trên hành trình chinh phục những ước mơ và khát vọng- nhưng khi lên đến đỉnh của thành công , điều quan trọng nhất vẫn là để “ngắm nhìn thế giới” chứ không phải để cho ai đó nhận ra mình.” * Xây dựng phần thân đoạn a. Đối với đề nghị luận về tư tưởng đạo lý - Phải giải thích được cụm từ khóa, giải thích được cả câu (cần ngắn gọn, đơn giản) - Bàn luận; + Đặt ra các câu hỏi : Vì sao lại khẳng định như vậy?, Có ý nghĩa như thế nào?, + Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến. + Dẫn chứng xác thực, phù hợp. + Đưa ra phản đề, phê phán mặt trái của ý kiến. b. Đối với đề nghị luận về hiện tượng đời sống: - Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của sự việc hiện tượng .( Trình bày ngắn gọn, cô đọng) - Bình luận, đánh giá về hiện tượng: nêu thái độ đối với hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng, hành động. * Xây dựng phần kết đoạn - Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận - Có thể trình bày bài học nhận thức hành động, liên hệ bản thân ở phần kết đoạn. Ví dụ: Đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí các bước cần phải tiến hành: + Giải thích vấn đề làm cơ sở nghị luận, phân tích các khía cạnh biểu hiện của vấn đề. + Vận dụng kiến thức đã tích lũy để chứng minh. + Bình luận mở rộng (tạo ra những phản đề). + Rút ra những bài học, khẳng định ý nghĩa thiết thực của vấn đề với bản thân và thế hệ trẻ. Việc rèn luyện kỹ năng viết bài là khâu công phu đòi hỏi người thầy sự tận tâm, lòng kiên trì, bền bỉ. Giáo viên rất cần phải tỉ mỉ, chăm chút trong quá trình chấm bài từ chỉ lỗi đến sửa lỗi cho các em; chấm trả bài tay đôi giữa giáo viên và học sinh là cách làm rất hiệu quả tuy mất nhiều thời gian. Nhưng cách thức này rất phù hợp và hiệu quả đối với các học sinh yếu, kém. Từ cách lập luận, trình bày các ý chính, đến ý nhỏ; sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng; đến cách sử dụng dẫn chứng sao cho hiệu quả và "nghệ thuật". Qua thực tế giảng dạy, ở kiểu bài nghị luận xã hội, các em lúng túng vận dụng các kĩ năng vào từng bài cụ thể. Việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh khi làm bài nghị luận xã hội còn phải chú ý từ rèn
Tài liệu đính kèm:
- ren_luyen_ki_nang_viet_doan_van_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sin.doc