Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học kiểu câu "Ai thế nào?" trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2, 3
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thế kỷ 21- thế kỷ của nền khoa học công nghệ và thông tin, của nền kinh tế tri thức. Tri thức đóng vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong xu thế phát triển chung của mỗi quốc gia. Chất lượng giáo dục và đào tạo là một trong những yếu tố, động lực thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
Bậc Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng, là bậc học nền móng của toà nhà tri thức, tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành kĩ năng và phát triển tri thức ở các bậc học cao hơn. Ở bậc học này, môn Tiếng Việt giữ một vai trò vô cùng quan trọng, cần thiết không thể thiếu được. Đây là môn học khai thác mọi mặt của thế giới khách quan, một cách có hệ thống, gắn liền với thực tế cuộc sống sinh hoạt. Nhờ Tiếng Việt mà con người có điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau. Vì thế mà ngay từ khi bắt đầu bước vào bậc học Tiểu học các em đã được học Tiếng Việt để biết cách sử dụng ngôn ngữ để tiếp nhận và diễn đạt các kiến thức cần ghi nhớ. Tiếng Việt bao gồm nhiều phân môn như: Học vần, Tập viết, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Mỗi môn học đều có mục đích, nhiệm vụ và phương pháp giảng dạy riêng, đặc biệt phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng vì nó là công cụ để học sinh khám phá thế giới xung quanh, cung cấp vốn hiểu biết về từ, câu phục vụ quá trình giao tiếp, khơi dậy, phát triển khả năng tư duy, óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, bồi dưỡng năng khiếu thẩm mỹ, lòng tự hào, yêu quý tôn trọng tiếng mẹ đẻ.
Đối với việc dạy phân môn Luyện từ và câu để học sinh nắm chắc kiểu câu là rất quan trọng. Vì trong học tập cũng như trong giao tiếp, các em sử dụng rất nhiều đến kiểu câu Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?. Đó là những kiểu câu cơ bản nhất được sử dụng thường xuyên, nó có thể xuất hiện trong bất cứ văn bản nào, trong bất cứ cuộc giao tiếp đối thoại nào. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy phân môn này đạt kết quả chưa cao. Đặc biệt khi dạy đến kiểu câu Ai thế nào? trong chương trình lớp 2,3 tôi thấy một số giáo viên, học sinh còn lúng túng, đôi lúc không phân biệt rõ, không nhận biết chính xác về kiểu câu Ai thế nào?, có khi còn nhầm lẫn giữa câu kiểu Ai thế nào? với các kiểu câu khác, có nhiều câu làm cho học sinh khó xác định nó là kiểu câu gì.? Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng này? Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu đưa ra sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học kiểu câu "Ai thế nào?" trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2,3.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thế kỷ 21- thế kỷ của nền khoa học công nghệ và thông tin, của nền kinh tế tri thức. Tri thức đóng vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong xu thế phát triển chung của mỗi quốc gia. Chất lượng giáo dục và đào tạo là một trong những yếu tố, động lực thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Bậc Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng, là bậc học nền móng của toà nhà tri thức, tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành kĩ năng và phát triển tri thức ở các bậc học cao hơn. Ở bậc học này, môn Tiếng Việt giữ một vai trò vô cùng quan trọng, cần thiết không thể thiếu được. Đây là môn học khai thác mọi mặt của thế giới khách quan, một cách có hệ thống, gắn liền với thực tế cuộc sống sinh hoạt... Nhờ Tiếng Việt mà con người có điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau. Vì thế mà ngay từ khi bắt đầu bước vào bậc học Tiểu học các em đã được học Tiếng Việt để biết cách sử dụng ngôn ngữ để tiếp nhận và diễn đạt các kiến thức cần ghi nhớ. Tiếng Việt bao gồm nhiều phân môn như: Học vần, Tập viết, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Mỗi môn học đều có mục đích, nhiệm vụ và phương pháp giảng dạy riêng, đặc biệt phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng vì nó là công cụ để học sinh khám phá thế giới xung quanh, cung cấp vốn hiểu biết về từ, câu phục vụ quá trình giao tiếp, khơi dậy, phát triển khả năng tư duy, óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, bồi dưỡng năng khiếu thẩm mỹ, lòng tự hào, yêu quý tôn trọng tiếng mẹ đẻ... Đối với việc dạy phân môn Luyện từ và câu để học sinh nắm chắc kiểu câu là rất quan trọng. Vì trong học tập cũng như trong giao tiếp, các em sử dụng rất nhiều đến kiểu câu Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?. Đó là những kiểu câu cơ bản nhất được sử dụng thường xuyên, nó có thể xuất hiện trong bất cứ văn bản nào, trong bất cứ cuộc giao tiếp đối thoại nào. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy phân môn này đạt kết quả chưa cao. Đặc biệt khi dạy đến kiểu câu Ai thế nào? trong chương trình lớp 2,3 tôi thấy một số giáo viên, học sinh còn lúng túng, đôi lúc không phân biệt rõ, không nhận biết chính xác về kiểu câu Ai thế nào?, có khi còn nhầm lẫn giữa câu kiểu Ai thế nào? với các kiểu câu khác, có nhiều câu làm cho học sinh khó xác định nó là kiểu câu gì.? Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng này? Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu đưa ra sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học kiểu câu "Ai thế nào?" trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2,3. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Khi đưa ra Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học kiểu câu "Ai thế nào?" trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2,3 tại trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá, tôi muốn được cùng các đồng nghiệp chia sẻ những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, trao đổi để tìm ra những biện pháp thiết thực có hiệu quả cao nhất để: Giúp học sinh hiểu các dạng bài tập thuộc kiểu câu Ai thế nào? và cách làm các dạng bài tập đó. Qua đó vận dụng kiến thức vào thực tế trong cuộc sống. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp rèn kĩ năng giúp học sinh lớp 2- 3 học tốt về kiểu câu Ai thế nào? trong phân môn Luyện từ và câu. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài đã sử dụng các phương pháp như: phương pháp đọc tài liệu, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thực hành, phương pháp đàm thoại, phỏng vấn, phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm... 1.5. Điểm mới của sáng kiến. Đề tài đã sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học mới trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục như: - Kĩ thuật nêu câu hỏi - Kĩ thuật hoạt động nhóm - Kĩ thuật trình bày 1 phút - Kĩ thuật đọc tích cực - Kĩ thuật viết tích cựa - Kĩ thuật chúng em biết 3 - Kĩ thuật KWLH 2. NỘI DUNG 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: 2.1.1. Vị trí, vai trò của phân môn Luyện từ và câu Phân môn Luyện từ và câu giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt vì không có vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp. Việc dạy Luyện từ và câu ở giai đoạn đầu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập và phát triển toàn diện. Luyện từ và câu có khả năng phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích tổng hợpvà các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra, phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn và rèn cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết trong học tập, lao động và mọi giao tiếp trong cuộc sống. 2.1.2. Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu: Nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ luyện từ và câu: Biết dùng từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những từ, câu không có văn hóa để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học sinh còn nắm được văn hóa chuẩn của lời nói. Phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy lôgic cao và khả năng thẩm mĩ. 2.1.3. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu. - Cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản vừa sức đối với lứa tuổi các em. - Trang bị cho học sinh một hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ. Cụ thể là giúp học sinh hiểu về cấu tạo, khái niệm về từ và câu. - Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú hóa vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hóa vốn từ), quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hóa vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực hóa vốn từ; làm quen với các kiểu câu, một số thành phần trong câu, tập dùng một số dấu câu. 2.1.4. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu đơn trong đó biết dùng từ đặt câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù hợp. Nó góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học sinh. Như vậy phân môn luyện từ và câu có tác dụng to lớn trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh. 2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 2.2.1. Thuận lợi: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi có bề dày thành tích trong phong trào “Dạy tốt, học tốt”. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn, nhiệt tình say sưa với công việc, tâm huyết với nghề, yêu thương học sinh; có khả năng lĩnh hội và vận dụng tốt trong việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học. Đa số các em ngoan ngoãn, chăm học, có khả năng học tập và vận dụng tốt những bài học vào cuộc sống hằng ngày. 2.2.2. Khó khăn - Dạy Luyện từ và câu là khó so với các phân môn khác. Có nhiều câu chưa phân định rõ ràng (đang còn nhiều tranh cãi) nên xác định và chốt lại cho học sinh là khó. - Giờ Luyện từ và câu thường trầm không sôi nổi và khô, học sinh ít chú ý vào bài, giáo viên phải chuẩn bị nhiều đồ dùng cho một tiết dạy như : tranh ảnh, bảng phụ, phấn màu Đối với học sinh lớp 2- 3 hiểu và làm tốt các bài tập về kiểu câu Ai thế nào? không phải là vấn đề dễ dàng. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy khi làm các bài tập này các em thường lúng túng và xác định còn nhầm, chất lượng chưa cao, đặc biệt khi đặt câu thì có em đặt nhiều câu sai với mẫu. Nguyên nhân tình trạng trên là do các em chưa được cung cấp khái niệm về câu Ai thế nào?, căn cứ để nhận biết từng bộ phận trả lời câu hỏi Ai? thế nào?; chưa hiểu rõ câu đó dùng để làm gì và khi nào thì dùng câu kiểu Ai thế nào?. Ở lớp 2 các em chỉ được làm bài qua các ví dụ mẫu của giáo viên để khẳng định đó là câu Ai thế nào?, lên lớp 3 các em ôn lại kiểu câu này. 2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: Để đảm bảo tất cả các đối tượng học sinh đều nắm được kiến thức về câu kiểu Ai thế nào? giáo viên cần lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và khắc sâu những kiến thức cơ bản hay đưa ra những căn cứ, lưu ý cụ thể dễ nhớ để phát triển tư duy cho học sinh. Vì vậy tôi đã nghiên cứu, đưa ra cách khắc phục để học sinh nắm được kiến thức, làm bài tập về kiểu câu Ai thế nào? một cách dễ dàng hơn với các giải pháp sau: Giải pháp 1. Dạy đúng quy trình : Trong chương trình phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2-3, nội dung dạy học về kiểu câu Ai thế nào? được trình bày qua hệ thống bài tập. Bài tập được chia làm 2 loại: bài tập nhận diện và bài tập vận dụng. Nhìn chung, cách dạy hai loại bài tập này đều được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Đọc và xác định yêu cầu bài tập. Bước 2: HS làm bài tập vào vở hoặc phiếu học tập. Ở bước này, HS phải tự giác, tích cực, chủ động làm bài tập. Phương pháp chính trong bước này là thảo luận nhóm theo bàn, theo tổ... rồi viết câu trả lời ra giấy hoặc đọc kết quả . Bước 3: Tổ chức cho HS trao đổi, nhận xét về bài làm, rút ra những điểm cần ghi nhớ khi áp dụng làm các bài tập dạng này. Khi thực hiện bước này, GV định hướng cho HS nội dung cần nhận xét. Từ đó, rút ra những kiến thức cần ghi nhớ. Dạy theo lớp Học sinh hoạt động theo nhóm Giải pháp 2. Nắm vững các phương pháp dạy học thường được sử dụng Để việc dạy học môn Tiếng Việt có hiệu quả, dưới đây là một số phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu có tác dụng tích cực: a) Phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp: HS dưới sự chỉ dẫn của giáo viên. Bước 1: GV nêu nhiệm vụ và phổ biến hình thức tổ chức hoạt động. Bước 2: HS tiến hành phân tích ngữ liệu và ghi kết quả vào vở. Bước 3: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả. Bước 4: GV tổ chức cho HS rút ra kiến thức cần lưu ý trong bài, thông qua các câu hỏi dẫn dắt, gợi ý. b) Phương pháp thảo luận nhóm là một cách học tạo điều kiện cho HS luyện tập khả năng mạnh dạn đưa ra các cách làm bài. Giúp học sinh rèn kĩ năng phân tích bài tập và tìm câu trả lời đúng. Qua thảo luận, ngôn ngữ và năng lực tư duy của HS trở nên linh hoạt. Nó có tác dụng thay đổi vị thế của HS trong lớp từ vị thế thụ động, tiếp thu thông tin một chiều trở thành vị thế chủ động tiếp thu thông tin đa chiều. Phương pháp thảo luận nhóm rất phù hợp với các bài dạy thuộc kiểu câu Ai thế nào?. Phương pháp này tạo không khí học tập sôi nổi, tạo môi trường thuận lợi cho việc vận dụng kĩ năng sự ghi nhớ thông tin mà giáo viên đã truyền đạt. Mỗi bài tập có yêu cầu khác nhau và sự biến đổi công thức đòi hỏi phải có sự hiểu biết kiến thức. Chính vì vậy, cần sự vận dụng một cách khéo léo và linh hoạt. Phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp các em tìm ra được câu trả lời tốt nhất, sinh động nhất thông qua trí tuệ tập thể. Điều này, vừa giúp các em củng cố được kiến thức vừa kích thích hứng thú học tập của các em. Học sinh hoạt động theo nhóm c) Phương pháp tổ chức trò chơi học tập là hình thức học tập môn Tiếng Việt theo hứng thú vui chơi, dựa trên những bài tập trắc nghiệm. Việc giải quyết vấn đề bài tập đặt ra nhằm để HS lĩnh hội, củng cố, vận dụng kiến thức, kĩ năng sử dụng các cách làm bài hay đã được học, những kinh nghiệm sống đã được tích luỹ vào các bài tập một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo. * Yêu cầu khi xây dựng trò chơi học tập - Về mục đích: Trò chơi phải hướng vào việc củng cố kiến thức về kiểu câu Ai thế nào?, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức trong cuộc sống thực tế. - Về nội dung: Trò chơi phải chứa nội dung về kiến thức về kiểu câu Ai thế nào?. Thực chất, đây là những bài tập vui và nhẹ nhàng. - Hình thức chơi: Các trò chơi thường được tiến hành theo nhóm hay cả lớp tuỳ vào nội dung trò chơi. Trò chơi có thể do GV hoặc do HS tự tổ chức, góp phần rèn luyện tinh thần tập thể và sự hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. - Về cách chơi: Cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện. Tuỳ hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, GV có thể tổ chức cho HS thực hiện trò chơi đơn giản (không cần chuẩn bị công phu) hay trò chơi có phần phức tạp (phải chuẩn bị trước) song phải đạt đựơc cái đích cuối cùng là củng cố kiến thức và tăng hứng thú học tập. Học sinh tích cực tham gia chơi trò chơi Trên đây, là một số phương pháp đặc thù cho việc dạy phân môn Luyện từ và câu nói chung và bài tập về kiểu câu Ai thế nào? nói riêng ở tiểu học đã được tôi lựa chọn vào để giúp giáo viên dạy đạt hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, các phương pháp này không hoàn toàn tách biệt nhau. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và yếu điểm riêng của nó, người giáo viên cần phải vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo mới có thể thu được hiệu quả mong muốn. Giải pháp 3. Nắm vững các kĩ thuật dạy học mới Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ tư duy... Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. 1. Kỹ thuật đặt câu hỏi: Việc đặt câu hỏi cần đảm bảo những nguyên tắc sau: - Câu hỏi phải liên kết logic với bài học - Ngôn ngữ trình bày câu hỏi rõ vấn đề hỏi (từ nghi vấn phù hợp ) - Phù hợp với trình độ tư duy của lứa tuổi HS - Kích thích HS suy nghĩ (hạn chế câu hỏi nhắc lại thuần túy) - Đặt câu hỏi đúng lúc và đúng chỗ (đúng lúc HS đang suy nghĩ, đúng chỗ có vấn đề trong bài học) - Mỗi câu hỏi chỉ hỏi 1 vấn đề - Dùng từng câu hỏi một, không dùng nhiều câu hỏi để hỏi cùng lúc 2. Kỹ thuật chia nhóm Kỹ thuật này dùng để dạy HS học tập hợp tác. Nó có thể được dùng trong nhiều đoạn của bài học (chia sẻ những trải nghiệm, khám phá kiến thức / kỹ năng mới, Luyện tập thực hành, Vận dụng). Có nhiều cách chia nhóm: Theo sở thích; trình độ; Hỗn hợp trình độ; ngẫu nhiên 3. Kỹ thuật KWL – KWLH (K: kiến thức/hiểu biết HS đã có; W: những điều HS muốn biết; L: những điều HS tự giải đáp/trả lời ; H: cách thức để HS tìm tòi nghiên cứu mở rộng thêm về chủ đề học) 4. Kỹ thuật Đọc tích cực Kĩ thuật này nhằm giúp HS tăng cường khả năng tự học và giúp GV tiết kiệm thời gian đối với những bài học / phần đọc có nhiều nội dung nhưng không quá khó đối với HS. Cách tiến hành như sau: - GV nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng HS đọc bài/phần đọc. - HS làm việc cá nhân: Lưu ý: Một số câu hỏi GV thường dùng để giúp HS tóm tắt ý chính: + Em có chú ý gì khi đọc nội dung A ? + Em nghĩ gì về đọc nội dung B ? + Em so sánh A và B như thế nào? + A và B giống và khác nhau như thế nào? 5. Kỹ thuật “Viết tích cực” - GV đặt câu hỏi và dành thời gian cho HS viết câu trả lời. GV cũng có thể yêu cầu HS viết ngắn gọn những gì đã biết trong thời gian nhất định. - GV yêu cầu một vài HS chia sẻ nội dung mà các em đã viết trước lớp. 6. Kỹ thuật Trình bày một phút - GV đặt câu hỏi : Bài này các em đã học được cái gì mới? Có điều quan trọng gì các em muốn giải đáp thêm? - HS suy nghĩ, nêu ý kiến, mỗi HS được trình bày trong 1 phút 7. Kỹ thuật Chúng em biết 3 Kỹ thuật này dùng trong thảo luận nhóm nhằm tập hợp những thông tin được chọn lọc từ thảo luận. Kỹ thuật này tạo cơ hội cho những HS có trình độ khá hỗ trợ HS có trình độ thấp hơn. Tiết học áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong phân môn Luyện từ và câu lớp 2B Giải pháp 4. Nắm vững một số trường hợp cần lưu ý: Thực hiện theo TT22 của Bộ giáo dục, dưới sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi thường phân loại đối tượng học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp. Với đối tượng học sinh đại trà tôi thực hiện dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng còn với học sinh năng khiếu, tôi đã đưa ra những vấn đề cần lưu ý nhằm phát huy năng lực tư duy của học sinh. Chẳng hạn: - Có những câu có từ chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái ở bộ phận trả lời câu hỏi Thế nào? nhưng câu đó không phải là kiểu câu Ai thế nào? VD 1: Đàn bò thung thăng gặm cỏ. Các em sẽ thấy từ thung thăng có tác dụng gợi tả cao nên dễ nhầm lẫn, cho rằng đó là câu kiểu Ai thế nào ? - GV cần hướng dẫn đặt câu hỏi: + Đàn bò làm gì? / + Đàn bò thế nào? Từ đó cho học sinh tìm ra câu trả lời phù hợp. (Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định từ chỉ hoạt động chính ở đây là gặm còn thung thăng chỉ là từ làm rõ nghĩa cho gặm. Để khẳng định đó là từ chủ đạo tôi hướng dẫn học sinh bỏ đi một trong hai từ, từ nào bỏ đi rồi mà câu đó vẫn rõ nghĩa thì từ bỏ đi là phụ còn từ nào bỏ đi mà câu đó không rõ nghĩa thì từ bỏ đi là chính. Đàn bò thung thăng cỏ.-> HS chỉ ra được nội dung thông báo chưa rõ nghĩa. Đàn bò gặm cỏ. -> Nội dung thông báo rõ nghĩa dễ hiểu hơn. Vậy trong câu này có từ thung thăng là từ chỉ trạng thái nhưng không phải là từ chính trong phần không phải là bộ phận trả lời câu hỏi “thế nào?” mà gặm mới là từ chỉ hoạt động chính. Theo các căn cứ ta khẳng định câu đó là câu kiểu Ai làm gì? chứ không phải là câu kiểu Ai thế nào? VD 2: Bé Lan bi bô cất tiếng gọi mẹ. Hướng dẫn tương tự như trên ta thấy đó là câu kiểu Ai làm gì? chứ không phải là câu kiểu Ai thế nào?, mặc dù có từ chỉ đặc điểm là bi bô. - Có những câu có từ chỉ hoạt động đứng trước từ chỉ đặc điểm tính chất nhưng nó vẫn là câu kiểu Ai thế nào? VD 3: Quả khế này ăn rất chua. Câu này có từ chỉ hoạt động ăn đứng trước từ chỉ đặc điểm tính chất rất chua. Nhưng ăn không phải là hoạt động của quả khế. Tôi hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi để khẳng định đó là câu kiểu Ai thế nào? Quả khế này làm gì? (không có câu trả lời hợp lí). Quả khế này thế nào? (Quả khế này ăn rất chua) phù hợp - Một số câu có thành phần trạng ngữ đứng trước, học sinh thường lúng túng không xác định đúng bộ phân câu trả lời câu hỏi Ai ?, thế nào? VD: Đêm trăng, biển yên tĩnh. Trước mặt tôi, dòng sông rộng mênh mông. Tôi hướng dẫn học sinh thấy dấu phẩy ngăn cách một nhóm từ không có từ chỉ sự vật hoặc không phải là đối tượng có đặc điểm tính chất hoặc trạng thái phía sau đó với một từ chỉ sự vật có đặc điểm tính chất hoặc trạng thái phía sau thì nhóm từ trên chỉ là phần phụ, từ chỉ sự vật có đặc điểm tính chất hoặc trạng thái phía sau mới là phần trả lời câu hỏi Ai? - Một số câu có bộ phận bổ sung ý nghĩa cho từ chỉ sự vật làm học sinh khó xác định đúng bộ phận trả lời câu hỏi Ai ? VD: Vườn hoa của nhà Lan rất đẹp. Với câu này học sinh thường xác định bộ phận trả lời câu hỏi Ai? là vườn hoa. Tôi hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi để tìm bộ phận trả lời câu hỏi Ai?; bộ phận trả lời câu hỏi thế nào? Lúc đó tôi khẳng định của nhà Lan là phần phụ giải thích rõ cho ta thấy Vườn hoa của ai rất đẹp. Ta phải đưa của nhà Lan vào bộ phận trả lời câu hỏi Ai ? Sau đó rút ra kết luận. - Có những câu có từ chỉ hoạt động ở bộ phận không phải trả lời câu hỏi Ai? và trong bộ phận đó không có từ chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái nhưng nó là câu kiểu Ai thế nào? VD: Những cánh hoa rơi lả tả. Chú gà trống nhà em phủ một lớp lông vàng óng. Trong hai câu này có từ rơi, phủ là từ chỉ hoạt động nhưng không có từ chỉ đặc điểm tính chất hoặc trạng thái vậy ta không thể xác định ngay là câu kiểu Ai thế nào? mà dễ xác định nó là câu kiểu Ai làm gì? Để học sinh khỏi nhầm lẫn tôi hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi: Những cánh hoa làm gì? / Những cánh hoa thế nào? Chú gà trống nhà em làm gì? / Chú gà trống nhà em thế nào? - Giáo viên cần chỉ rõ: rơi không phải là hoạt động mà Những cánh hoa chủ động làm được hoặc đang làm, tương tự câu 2 có từ phủ. Các câu đó miêu tả đặc điểm, trạng thái của chú gà trống và những cánh hoa. Vậy các câu đó là câu kiểu Ai thế nào? - Một số câu kiểu Ai thế nào? có từ chỉ hoạt động làm rõ nghĩa cho bộ phận trả lời câu hỏi Ai ? làm học sinh nhầm lẫn đó là câu kiểu Ai làm gì ? và xác định nhầm các bộ phận câu. VD: Tiếng suối chảy rì rào. Trong câu này có từ chỉ hoạt động chảy ngay sau bộ phận
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_kieu_cau_ai_the.doc