Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả cho học sinh lớp 3

Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả cho học sinh lớp 3

Như chúng ta đã biết: Đất nước ta đang trong thời kì đẩy mạnh công cuộc “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để biến lí tưởng, mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực thì giáo dục giữ một vai trò, vị trí cực kì quan trọng đó là tạo ra những con người phù hợp với thời đại: có đủ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về khoa học kĩ thuật để góp phần xây dựng đất nước. Mà trong sự nghiệp giáo dục bậc tiểu học lại chính là bậc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng, phát huy tình cảm thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. [1]

Người xưa thường nói: “Nét chữ - Nết người” hàm ý về hai vấn đề: Thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người ; thứ hai thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy “Viết chữ đẹp” vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh.

Chữ viết còn giúp học sinh rèn luyện được những đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, kiên trì

Hiện nay ở nhiều trường, học sinh viết chữ khá đẹp. Song vẫn còn một số ít phụ huynh phàn nàn về chất lượng chữ viết của con em mình. Trong các kì thi số học sinh bị điểm kém do nguyên nhân chữ viết và trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Vậy làm thế nào để dạy chữ viết - rèn nết người cho học sinh ?

 Đứng trước thực trạng đó, yêu cầu đối với nhà giáo dục phải đào tạo con người toàn diện trong đó tiếng mẹ đẻ (tiếng phổ thông) là một trong những điều kiện kiên quyết giúp học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ dàng.

 Từ những lí do trên, để góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh tôi chọn đề tài “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả cho học sinh lớp 3” làm đề tài nghiên cứu của mình.

 

doc 18 trang thuychi01 6932
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết: Đất nước ta đang trong thời kì đẩy mạnh công cuộc “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để biến lí tưởng, mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực thì giáo dục giữ một vai trò, vị trí cực kì quan trọng đó là tạo ra những con người phù hợp với thời đại: có đủ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về khoa học kĩ thuật để góp phần xây dựng đất nước. Mà trong sự nghiệp giáo dục bậc tiểu học lại chính là bậc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng, phát huy tình cảm thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. [1]
Người xưa thường nói: “Nét chữ - Nết người” hàm ý về hai vấn đề: Thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người ; thứ hai thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy “Viết chữ đẹp” vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh.
Chữ viết còn giúp học sinh rèn luyện được những đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, kiên trì
Hiện nay ở nhiều trường, học sinh viết chữ khá đẹp. Song vẫn còn một số ít phụ huynh phàn nàn về chất lượng chữ viết của con em mình. Trong các kì thi số học sinh bị điểm kém do nguyên nhân chữ viết và trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Vậy làm thế nào để dạy chữ viết - rèn nết người cho học sinh ? 
 Đứng trước thực trạng đó, yêu cầu đối với nhà giáo dục phải đào tạo con người toàn diện trong đó tiếng mẹ đẻ (tiếng phổ thông) là một trong những điều kiện kiên quyết giúp học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ dàng.
 	Từ những lí do trên, để góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh tôi chọn đề tài “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả cho học sinh lớp 3” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
	Tôi thực hiện đề tài này nhằm tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng cho học sinh viết đúng chính tả và phụ âm đầu, vần khó.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận thực tiễn việc rèn chữ viết chính tả cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng nhằm củng cố và phát huy nề nếp rèn chữ viết cho học sinh, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen đúng Tiếng Việt. Từ đó để nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 3.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu những biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả nhằm giúp học sinh lớp 3 trường Tiểu học Quảng Phú viết đúng, viết đẹp. 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
- Phương pháp xây dựng cơ sở lý luận: Đọc các tài liệu, các sách bồi dưỡng Tiếng việt, tập san giáo dục và thu thập tài liệu trên mạng intenet liên quan đến đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả”.
- Phương pháp điều tra, khảo sát , thu thập thông tin.
- Khảo sát thực tế chất lượng viết chính tả lớp 3A.
- Phương pháp dạy thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích thực tiễn chương trình, phân tích lỗi sai.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
 	 Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho ngườì viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
 	Phân môn chính tả trong nhà trường, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết. Trong những năm gần đây, phòng giáo dục thành phố luôn quan tâm đến nền nếp “Vở sạch - Chữ đẹp”, Đặc biệt là phong trào thi đua “Viết chữ đẹp - Giữ vở sạch” giữa các lớp trong nhà trường được tổ chức hằng năm. Đây là một hình thức để tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết chữ đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả.
 	 Hiện nay có những phương án dạy - học Tiếng Việt khác nhau ở tiểu học. Đó là một xu hướng lành mạnh - điều đáng nói là các phương án này đều hướng tới một mục tiêu chung đó là giáo dục một cách toàn diện hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức và kĩ năng cơ sở thiết thực với cuộc sống cộng đồng, lòng tự tin, tính hồn nhiên, sự năng động và linh hoạt. Giúp học sinh có đầy đủ phẩm chất, ý chí và ước mơ đem sức mình đáp ứng được những nhu cầu phù hợp với xã hội trong thời đại mới.
Môn Tiếng Việt ở tiểu học là một trong những môn học chiếm nhiều thời lượng trong chương trình. Dạy học sinh viết chữ được coi là một trong những yêu cầu cơ bản quan trọng hàng đầu. Chính vì vậy nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: "Nét chữ - Nết người". [2]. 
 Chữ đẹp nào phải hoa tay 
 Ta chăm luyện tập hàng ngày đâu quên.
 Rèn chữ viết là rèn tính cẩn thận, tỉ mỉ, kiên trì; rèn khả năng thẩm mỹ, tính chính xác, khoa học, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô bạn bè khi đọc bài của mình. Như vậy, việc rèn chữ viết tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác. Trong những năm gần đây việc rèn chữ viết cho giáo viên và học sinh tiểu học là một việc làm quan trọng, là một trong những mũi nhọn hàng đầu của phong trào thi đua.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC CHÍNH TẢ:
2.2.1. Thuận lợi:
Năm học 2017 – 2018 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3A, tôi đã tìm hiểu kỹ về học sinh, đa số các em đều ngoan, chăm học đã có sự tập trung chú ý trong các giờ học chính tả. Các em đã nắm được độ cao, rộng của các nhóm chữ để vận dụng vào bài viết, phần lớn đã có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học. 
 Mặt khác được Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm, hầu hết đồ dùng và thiết bị dạy học được trang bị khá đầy đủ. Vì vậy có sự thuận lợi cho giáo viên dạy học.
2.2.2. Khó khăn:
Lớp 3A là lớp học phần đa gia đình làm nông nghiệp nên việc chăm lo đến học tập của các bậc phụ huynh đối với các em còn hạn chế. Có em đi học còn hay quên sách vở, thiếu đồ dùng học tập.
Mặt khác do cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế như: phòng học còn hẹp do HS đông. Bàn học kê chật học sinh ngồi khó viết, bảng lớp dòng kẻ đã mờ, sơn bảng trơn trượt viết chữ không đẹp, khó viết,... đã làm ảnh hưởng ít nhiều tới chất lượng chữ viết của học sinh.
2.2.3. Thực trạng chữ viết của học sinh:
	Nhiều năm tôi dạy lớp 3, tôi thấy đầu năm, các em còn có những hạn chế chữ chưa đều nét, chưa đúng dòng kẻ, chưa đúng chuẩn.
VD: chữ r, s nét móc chưa lên ¼ li, chữ t kéo 2 li, các nét khuyết hơi gãy, thế chữ chưa nhất quán câc em còn chệch choạc li.
	Cụ thể kết quả khảo sát chữ viết của học sinh như sau:
STT
Xếp loại
SL (em)
Tỷ lệ
Ghi chú
1
Loại A
16
38.1%
2
Loại B
18
42.8 %
3
Loại C
8
19.1 %
 * Nhận định nguyên nhân: 
 	Sở dĩ học sinh có đi xuống về chất lượng chữ viết là do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên cơ bản vẫn do một số nguyên nhân sau:
	- Do phụ huynh HS chưa quan tâm đến việc rèn chữ viết cho con em của mình mà chỉ chú trọng đến kiến thức của các môn Toán, Tiếng Việt.
	- Do ý thức tự giác học tập, tự rèn ở nhà chưa cao.
Thực trạng đó khiến tôi luôn trăn trở trong nhiều năm dạy học “Làm thế nào để giúp học sinh nâng cao chất lượng giờ chính tả nhằm giúp học sinh lớp 3 viết đúng, viết đẹp ? ”. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên cứu tài liệu và cơ bản dựa vào thực tế giảng dạy ở lớp, tôi đã giúp học sinh viết chữ đúng, đẹp và giữ vở sạch. Sau đây tôi xin chia sẻ với đồng nghiệp một số giải pháp mà tôi đã thực hiện.	
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ CHÍNH TẢ
2.3.1. Tìm hiểu phân loại đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành phân loại học sinh, bởi vì: Phân loại học sinh là điều cần thiết quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của giờ chính tả. Nếu như không phân loại sẽ ảnh hưởng đến việc học của học sinh hoàn thành tốt và học sinh hoàn thành. Vì vậy sau khi ổn định tổ chức lớp trong vòng 2 tuần đầu, tôi đã tiến hành điều tra học sinh. Qua bài kiểm tra đầu năm của các em, qua thực tế bài viết trong 4 bài của 2 tuần đầu. Sau đó tôi tiến hành phân loại học sinh theo tiêu chí chữ viết.
 Những em viết đúng mẫu chữ quy định, viết đẹp được phân loại A như các em Mai, Thúy Phương, Thảo, Vũ, Chi, Lan Anh, Trà My ,	
 Những em viết đẹp hoặc chưa đẹp lắm, ít sai lỗi chính tả được phân loại B (có 18 em) như em Cường, Thanh, Hòa, An ... Những em viết còn xấu, sai nhiều lỗi, được phân loại C gồm 8 em như em Tuấn Anh, Hiếu , Linh, Nga, Long,.... 
2.3.2. Rèn nề nếp, tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả.
 	Trước hết muốn học sinh viết đẹp thì người giáo viên nên nghĩ rằng “Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi viết” là cái quan trọng đầu tiên giúp cho học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy, ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 3 rồi mà khi viết mắt vẫn cuối sát xuống bàn hay cầm bút quá thấp nên mực hay ra tay làm bẩn vở. Để giúp những em này biết ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ viết đẹp hơn và có lợi cho sức khoẻ. Ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo người thì sẽ bị tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu các em nhìn vào vở quá sát thì mắt sẽ bị cận thị ... Sau đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế ngồi viết: ngồi viết ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực xuống bàn. Đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 20 - 25 cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía trước bên trái quyển vở giữ mép vở để khi viết không bị xê dịch. Quyển vở được để hơi chếch về phía tay trái, hai chân để thẳng vuông góc, sau đó tôi hướng dẫn các em cầm bút sao cho dễ viết, không cao quá khó viết và cũng không được thấp quá mực sẽ dây vào tay làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn tỉ mỉ tôi khuyến khích cho các em thực hiện, bạn nào ngồi đúng nhất được cô tuyên dương trước lớp. Trong các tiết dạy chính tả tiếp theo, tôi luôn nhắc nhở các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học sinh.
 Ngoài ra, tôi thấy bút để rèn viết chữ đẹp cũng rất quan trọng nên tôi đã mua cho HS cả lớp cùng một loại bút. 
2.3.3. Rèn lỗi phát âm, đọc nói đúng tiếng phổ thông:
 Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Nếu giáo viên chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng của cách phát âm ở địa phương, sinh ra và lớn lên trong môi trường phát âm như vậy nên các em cũng có thói quen phát âm sai dẫn đến hiện tượng viết sai chính tả. 
 Trong việc rèn lỗi phát âm, đọc nói đúng tiếng phổ thông việc đọc mẫu của giáo viên có vai trò quan trọng. Khi đọc bài chính tả giáo viên phải phát âm đúng, rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng chính tả. 
2.3.4. Luyện viết đúng phụ âm đầu:
 Để giúp học sinh viết đúng 1 số phụ âm đầu dễ lẫn lộn này, trong mỗi giờ chính tả tôi phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt, trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ âm mà học sinh hay sai để cho bài dạy sinh động, để giúp các em dễ phân biệt được cách viết đúng, sai.
 Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng khó để luyện tập cách nghe cho học sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các em nhận ra những tiếng từ các em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả, các em đã được học.
Như trước e, ê và i âm cờ được viết bằng chữ k (ca).
Ví dụ: kê; kẽ....
Hoặc trước e, ê vài âm gờ viết bằng chữ gh ( gh ghép) hay ngờ viết bằng ngh
 ( ngờ ghép).
Ví dụ: + ghế, ghé.....
 	 + nghé, nghĩ....
Sau khi các em nhắc lại được 1 số luật chính tả, thì cho các em được luyện viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ.
 Ngay từ lớp Một, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như các âm đầu : k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê và âm g chỉ kết hợp với : a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. Giáo viên còn có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như sau: 
a) Phân biệt âm đầu s/x : Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s (sắn, sung, sầu riêng, sứ, sả, sim, sậy,su su ; sáo, sên, sâu, sán, sóc, sói, sư tử,).
b) Phân biệt âm đầu tr/ch : Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch (chổi, chum, chén, chảo, chai, chày, chăn, chiếu,; chó, chuột, châu chấu, chuồn chuồn, chào mào, chiền chiện,).
 	Trong những giờ chính tả có phần luyện tập r/d/gi đa số các em khó tìm ra quy tắc phân biệt khi nào viết, d hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt bằng nhiều cách như sau. Đầu tiên tôi cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt.
Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu r/d/gi có trong bài.
Học sinh tìm được là: dạo, rụt rè, giờ, giỏi, dành, ....
Bước 2: Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
Chẳng hạn: với tiếng "dán".
Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết.
d + an + dấu sắc - dán.
+ Phát âm (gv làm mẫu, gọi 1; 2 học sinh phát âm lại) d - an - sắc - dán.
+ Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa).
Em hãy đọc lại câu có chứa tiếng "dán" cho trong bài và cho cô biết "dán" ở đây ý nói gì? (dùng một vật này chồng lên vật khác, giữa chúng có keo hoặc hồ để kết dính hai vật lại với nhau).
+ Học sinh tìm từ có tiếng "dán"; dán giấy, cắt dán, hồ dán...
Bước 3: Cho học sinh phân biệt r/d/gi bằng cách tìm các tiếng lập bảng.
r
d
gi
- rán : rán bánh
 - dán: dán giấy
 - con gián
- rán mỡ, rán chín...
 - cắt dán, hồ dán
- gián tiếp, gián đoạn
Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em tìm từ có tiếng "rán" "dán". Học sinh tìm đến đâu tôi ghi lên bảng đến đấy.
 	 Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo dõi, quan tâm uốn nắn từng em. Những em viết sai s/x là do các em phát âm sai. Khi dạy tôi phải phát âm lại cho các em nghe, phát âm s cong lưỡi, đầu lưỡi chạm phía trên. Còn viết là x khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra phía ngoài, luồng hơi thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng con theo sự phát âm của cô như: Thi viết nhanh và đúng, cô đọc"xanh" cả lớp viết vào bảng con, bạn nào viết sai bị đứng lên phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng khác ( mùa xuân, sương,...). hoặc khi dạy chính tả tiết 3 tuần thứ 2 ở phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a ( bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt s/x qua các dạng bài tập.
Bài tập2a: Hãy chọn từ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống? 
 	- (xấu, sấu): cây ..., chữ ... 
 	- (sẻ, xẻ): san ...., .... gỗ 
 - (sắn, xắn) ......tay áo, củ .... 
 	*Trước khi làm bài tôi cho 2 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả lớp đọc thầm.
 	Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu của bài tập, tôi tiến hành tổ chức hình thức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức. 
- Giáo viên chọn hai đội chơi, mỗi đội chơi gồm 3 em 
- Giáo viên phổ biến cách chơi, luật chơi.
 - Học sinh chơi (thời gian 3 phút)
 - Kết quả đội nào điền đúng, nhanh nhất, không phạm luật chơi thì đội đó
thắng cuộc.
 Cả lớp và giáo viên nhận xét, giáo viên chốt lại lời giải đúng.
Để phân biệt s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng câu đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách làm đúng khi viết chính tả.
Dạng bài tập: điền vào chỗ trống s hay x 
	Một nhà ... àn đơn ... ơ vách nứa (sàn, sơ)
	Bốn bên ...uối chảy, cá bơi vui (suối)
	Đêm đêm cháy hồng bên bếp lửa
Ánh đèn khuya còn ... áng lưng đồi (sáng).
	(Nguyễn ĐìnhThi)
Hoặc dạng bài tập:
Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hay x có nghĩa như sau:
+ Còn lại một chút do sơ ý hay quên (sót).
+ Món ăn bằng gạo nếp chín (xôi).
+ Trái nghĩa với tối (sáng).
Với những dạng bài tập như trên tôi đều tổ chức cho các em trao đổi theo nhóm ngẫu nhiên. Sau đó đại diện nhóm lên trình bày, các nhóm khác nhận xét bổ sung giáo viên chốt lại lời giải đúng . 
Để giúp học sinh lớp tôi viết đúng chính tả, cũng như phân biệt được các phụ âm đầu, tôi thường linh hoạt khi dạy chính tả như dạy tiết 3 tuần 5. Các bài tập trong VBT được đưa ra phân biệt l/n hoặc en/eng. Nhưng khi dạy học sinh lớp ở lớp 3 A không nói sai và không viết sai l/n hoặc en/eng, nên tôi chủ động thay bài tập này bằng tập phân biệt ch/tr hoặc s/x cho các em được luyện đọc, viết nhiều và từ việc hiểu nghĩa của từ các em dễ nhớ và viết đúng chính tả.
Với việc phân biệt ?/~ hay ch/tr các em hay nói sai và dẫn đến viết sai, nên tôi luyện cho các em như các hình thức luyện tâp s/x nói trên. Khi dạy chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết chữ khó (chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này, đối với bước nào tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những từ nào em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em được luyện viết trên bảng con và gọi vài em lần lượt lên bảng viết học sinh và giáo viên nhận xét đúng sai.
 Song song với phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng các vần khó trong các tiếng, từ.
2.3.5. Luyện viết đúng tiếng có vần khó.
 	Trong quá trình viết các em thường gặp phải những tiếng có vần khó, từ có vần khó (uyu, uôn, oang, uyết....) một số tiếng có vần dễ lẫn lộn (oe /eo /uê /oa / ao ...) một số từ khó "khuỷu tay" trong bài "Ai có lỗi", "Luống rau" trong bài "Chị em"...., "khoát tay" trong bài "Người lính dũng cảm"...
 Để rèn luyện đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt từng tiếng, cho học sinh khác nhận xét và thống nhất cách viết.
kh + uyu + thanh hỏi = khuỷu
 kh + oat + thanh sắc = khoát
 Vần khó nên khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho học sinh viết bảng con, lớp nhận xét, lớp tự sửa sai. Với những bài viết có ít những vần khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó, đọc cho học sinh viết, để khắc sâu vần cần chú ý.
 	Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài tập khác nhau cho các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ cách viết đúng.
 	Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, việc nhận xét, chữa bài cũng rất quan trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không bị mắc lỗi sai đó.
 	 Có nhiều hình thức chữa bài, những khi dạy thường sử dụng biện pháp như sau: 
 	Sau khi viết bài xong, cô đọc chậm cho các em tự soát bài sau đó cho các em tự đổi vở cho nhau ( 2 em ngồi cạnh nhau) theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong, tôi cho các em nêu kết quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Tôi hỏi sau khi các bạn kiểm tra bài bạn xong, em thấy có bài nào không viết sai lỗi nào hoặc bài nào sai 2; 3 lỗi không? bài nào còn sai rất nhiều lỗi? Giáo viên kịp thời tuyên dương những bạn không sai lỗi nào. 
Từ việc học sinh tự sửa lỗi theo tôi có những đặc điểm tích cực sau đây:
 	- Các em được tiếp xúc (có thức) với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp phần củng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
 	- Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính tả.Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho mỗi trường hợp. Nên góp phần cũng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả năng chính tả.
 - Trường hợp, những em học sinh viết chậm, chuyên viết sai lỗi chính tả thì không tự phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật chính tả một cách thuận ti

Tài liệu đính kèm:

  • docbien_phap_nang_cao_chat_luong_gio_chinh_ta_cho_hoc_sinh_lop.doc