Báo cáo biện pháp Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược vào bài 17 "Hô hấp ở động vật" - Sinh học 11 nhằm phát triển năng lực học sinh

Báo cáo biện pháp Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược vào bài 17 "Hô hấp ở động vật" - Sinh học 11 nhằm phát triển năng lực học sinh

Mô hình lớp học đảo ngược là một phương pháp dạy học tiên tiến bằng cách “đảo ngược” quá trình dạy học so với mô hình dạy học truyền thống. Sự “đảo ngược” ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và chiến lược sư phạm thể hiện ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu dạy học và các hoạt động dạy học khác với cách truyền thống trước đây của người dạy và người học [2].

Trong mô hình lớp học đảo ngược, các hoạt động “học ở lớp, làm bài tập ở nhà” (trong mô hình lớp học truyền thống) được chyển thành các hoạt động tự học ở nhà qua đọc tài liệu, video bài giảng, học trực tuyến, nghiên cứu bài học qua internet và khi đến lớp người học sẽ làm bài tập, trao đổi, chia sẻ các nội dung của bài học, giải quyết các vấn đề, tình huống do GV đặt ra. Người học sẽ phải làm việc với bài giảng trước thông qua đọc tài liệu, tóm tắt tài liệu, nghe giảng thông qua các phương tiện hỗ trợ như các clip, bản trình chiếu cũng như tìm kiếm, khai thác các tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu bài học.

Những tư liệu về bài học được gửi trước cho người học và trở thành bài tập ở nhà mà người học phải chuẩn bị trước khi lên lớp. Toàn bộ thời gian trên lớp sẽ dành cho các hoạt động định hướng của GV, người học báo cáo, trao đổi, chia sẻ phần chuẩn bị của mình trước khi GV củng cố và chính thức chốt lại các nội dung của bài học.

Trong mô hình lớp học đảo ngược, HS nghiên cứu các bài giảng thông qua các trang web học tập còn giờ học trên lớp sẽ được dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu.

 

doc 23 trang tuyettranh 24/12/2022 229512
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược vào bài 17 "Hô hấp ở động vật" - Sinh học 11 nhằm phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
VẬN DỤNG MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC
VÀO BÀI 17 “HÔ HẤP Ở ĐỘNG VẬT” - SINH HỌC 11
NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
BỘ MÔN: SINH HỌC
Năm học: 2020 - 2021
MỤC LỤC
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
MÔ TẢ SÁNG KIẾN 	 1
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến	 1
2. Cơ sở lí luận	 3
3. Thực trạng của vấn đề	 12
4. Giải pháp thực hiện	 15
4.1. Nguyên tắc xây dựng bài dạy theo mô hình lớp học đảo ngược	 15
4.2. Quy trình xây dựng bài dạy theo mô hình lớp học đảo ngược	 17
4.3. Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược vào bài 17 “Hô hấp ở động vật” - Sinh học 11 .................................................................................................. 19
 4.3.1. Giai đoạn trước lớp học	 19
 4.3.2. Giai đoạn trong lớp học 	 24
 4.3.3. Giai đoạn sau lớp học 	 32
5. Kết quả đạt được	 33
 5.1. Hiệu quả về mặt kinh tế 	 33
 5.2. Hiệu quả về mặt phát triển năng lực học sinh	 33
 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng	 38
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 39
1. Kết luận 	 39
2. Khuyến nghị	 40
PHỤ LỤC	 42
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT	 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO	 64
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược (flipped classroom)
2.1.1. Khái niệm dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược 
Mô hình lớp học đảo ngược là một phương pháp dạy học tiên tiến bằng cách “đảo ngược” quá trình dạy học so với mô hình dạy học truyền thống. Sự “đảo ngược” ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và chiến lược sư phạm thể hiện ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu dạy học và các hoạt động dạy học khác với cách truyền thống trước đây của người dạy và người học [2].
Trong mô hình lớp học đảo ngược, các hoạt động “học ở lớp, làm bài tập ở nhà” (trong mô hình lớp học truyền thống) được chyển thành các hoạt động tự học ở nhà qua đọc tài liệu, video bài giảng, học trực tuyến, nghiên cứu bài học qua internet và khi đến lớp người học sẽ làm bài tập, trao đổi, chia sẻ các nội dung của bài học, giải quyết các vấn đề, tình huống do GV đặt ra. Người học sẽ phải làm việc với bài giảng trước thông qua đọc tài liệu, tóm tắt tài liệu, nghe giảng thông qua các phương tiện hỗ trợ như các clip, bản trình chiếu cũng như tìm kiếm, khai thác các tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu bài học.
Những tư liệu về bài học được gửi trước cho người học và trở thành bài tập ở nhà mà người học phải chuẩn bị trước khi lên lớp. Toàn bộ thời gian trên lớp sẽ dành cho các hoạt động định hướng của GV, người học báo cáo, trao đổi, chia sẻ phần chuẩn bị của mình trước khi GV củng cố và chính thức chốt lại các nội dung của bài học. 
Trong mô hình lớp học đảo ngược, HS nghiên cứu các bài giảng thông qua các trang web học tập còn giờ học trên lớp sẽ được dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu. 
Mô hình lớp học truyền thống
Mô hình lớp học đảo ngược
Như vậy, ở lớp học đảo ngược sẽ ngược lại với mô hình lớp học truyền thống, HS xem trước tại nhà những bài giảng, những video về lý thuyết và thực hiện những bài tập cơ bản do GV chia sẻ qua internet, trong khi thời gian ở lớp lại dành cho việc giải đáp thắc mắc của HS, làm bài tập khó hay thảo luận sâu hơn về kiến thức.
Bản chất của mô hình lớp học đảo ngược là hướng tới mục tiêu hoạt động hoá việc học của người học, chú trọng sự tương tác giữa người học và môi trường học tập nhằm cập nhật, nâng cao kiến thức từ kiến thức vốn có của HS đến kiến thức cần chiếm lĩnh. GV phải tạo được môi trường để thúc đẩy sự sáng tạo trong tiếp thu kiến thức của người học cũng như tạo cơ hội để rèn luyện, phát triển tư duy cho người học. Trong mô hình lớp học đảo ngược, GV cần xác định rõ việc dạy học luôn phải lấy hoạt động học của HS làm trung tâm.
2.1.2. Cơ sở khoa học của mô hình lớp học đảo ngược
	Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược là thang đo tư duy Bloom.
Lớp học đảo ngược, lớp học truyền thống và thang đo cấp độ tư duy
của Bloom
Theo thang đo tư duy Bloom, các cấp độ tư duy đi từ thấp đến cao là: ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo. Có thể thấy trong lớp học truyền thống, do thời gian trên lớp bị giới hạn nên GV chỉ có thể hướng dẫn người học các nội dung ở hai mức độ đầu của nhận thức là ghi nhớ, thông hiểu. Để đạt được mức độ cao hơn, người học phải nỗ lực tự học tập và nghiên cứu ở nhà và đó là một trở ngại lớn đối với đa số các em. Với mô hình lớp học đảo ngược thì hai mức độ đầu là những hoạt động đòi hỏi mức tư duy thấp nhất, do đó, HS có thể tự thực hiện ở nhà nhờ những tài liệu, video, bài giảng được đưa trước để đọc dưới sự hướng dẫn của GV. Thời gian ở lớp, dành tối đa cho GV và HS cùng làm việc để giúp cho người học đạt được tư duy bậc cao hơn (vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo). Đây là một yêu cầu khó khăn, đòi hỏi mức tư duy đào sâu hơn nhưng HS có thể đạt được khi có GV và bạn bè cùng thảo luận, chia sẻ, hỗ trợ. Mô hình lớp học đảo ngược là phù hợp với thang đo tư duy Bloom.
2.1.3. Đặc điểm của dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược
* Sự khác nhau giữa mô hình lớp học đảo ngược với mô hình dạy học truyền thống
Sự khác biệt cơ bản trong việc tổ chức các hoạt động trong và ngoài lớp học giữa mô hình lớp học đảo ngược và lớp học truyền thống có thể tóm tắt qua bảng sau:
Bảng 1. Chuyển đổi hoạt động trong mô hình lớp học đảo ngược
và lớp học truyền thống
Loại hình
Trong lớp học
Ngoài lớp học
Lớp học truyền thống
Bài học/bài giảng
Bài tập và luyện tập
Lớp học đảo ngược
Bài tập và luyện tập
Tư liệu/video bài giảng
	Như vậy, sự khác nhau giữa lớp học đảo ngược với mô hình dạy học truyền thống ở cách tổ chức và quy trình thực hiện. Nếu ở lớp học truyền thống, GV là trung tâm, HS đến lớp học bài mới dưới sự giảng dạy của GV và sau đó về nhà làm bài tập thì ở lớp học đảo ngược, HS sẽ là trung tâm, HS xem trước bài giảng, tự chủ động khám phá kiến thức ở nhà và đến lớp trao đổi, thảo luận với GV, bạn bè để hiểu vấn đề một cách sâu, rộng hơn.
Bảng 2. So sánh tổ chức lớp học truyền thống và lớp học đảo ngược
Loại hình
Giáo viên
Học sinh
Lớp học truyền thống
- GV hướng dẫn.
- GV đánh giá.
- HS ghi chép.
- HS làm theo hướng dẫn.
- HS có bài tập về nhà.
Lớp học đảo ngược
- GV chia sẻ bài giảng, tài liệu, sách, video, trang web, ... cho người học nghiên cứu tại nhà.
- GV hướng dẫn, tổ chức thảo luận,... và chốt, mở rộng các nội dung bài học trên lớp.
- Người học hiểu sâu hơn các khái niệm, ứng dụng và có sự kết nối với nội dung đã tạo ra khi thảo luận tại lớp.
- Người học nhận được sự hỗ trợ khi cần thiết.
Trong mô hình lớp học đảo ngược, HS sẽ chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết hơn, các em có thể tiếp cận bài giảng bất kỳ lúc nào, có thể dừng bài giảng lại, ghi chú và xem lại nếu cần (điều này là không thể nếu nghe GV giảng dạy trên lớp).
Bên cạnh đó, lớp học đảo ngược cho phép GV dành thời gian nhiều hơn với từng cá nhân HS chưa hiểu kỹ bài giảng và tại lớp học, HS có thể chủ động tham gia các cuộc thảo luận.
Mô hình lớp học đảo ngược có tính khả thi cao đối với HS có khả năng tự học, có kỷ luật và ý chí. Hiệu quả của phương pháp đã được kiểm chứng ở nhiều quốc gia có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ.
Ở lớp học truyền thống, HS đến trường ngồi nghe giảng bài thụ động. Sau đó, các em về nhà làm bài tập và quá trình làm bài tập sẽ khó khăn nếu HS không hiểu bài. Lúc này cha mẹ các em sẽ phải đóng vai người thầy “bất đắc dĩ” để giúp con mình làm bài và hầu hết đều không thành công trong vai trò này hoặc rất vất vả vì ít phụ huynh có chuyên môn. Như vậy, nhiệm vụ truyền đạt kiến thức mới thuộc người thầy, và theo thang tư duy Bloom thì nhiệm vụ này chỉ ở những bậc thấp (tức là “ghi nhớ” và “hiểu”) còn nhiệm vụ của HS là làm bài tập vận dụng và nhiệm vụ này thuộc bậc cao của thang tư duy (bao gồm “ứng dụng”, “phân tích”, “đánh giá” và “sáng tạo”). Điều trở ngại ở đây là nhiệm vụ bậc cao lại do phụ huynh và HS là những người không có chuyên môn đảm nhận.
Với lớp học đảo ngược, việc tìm hiểu kiến thức được định hướng bởi người thầy (thông qua các tài liệu đã được GV chuẩn bị trước cùng thông tin do HS tự tìm kiếm), nhiệm vụ của HS là tự học kiến thức mới này và làm bài tập mức thấp ở nhà. Ở lớp, các em được GV tổ chức các hoạt động để tương tác và chia sẻ lẫn nhau. Các bài tập bậc cao cũng được thực hiện tại lớp dưới sự hỗ trợ của GV và các bạn cùng nhóm.
Như vậy nhiệm vụ bậc cao trong thang tư duy được thực hiện bởi cả thầy và trò. Phương pháp này không cho phép HS ngồi nghe thụ động nên giảm được sự nhàm chán. Mặc dù vậy, muốn quá trình dạy học đảo ngược thành công thì những tài liệu GV chuẩn bị phải rất bài bản và hấp dẫn để lôi cuốn được HS tập trung vào việc học. GV phải quản lý và đánh giá được việc tiếp thu kiến thức thông qua các bài tập nhỏ đi kèm với tài liệu học.
Lớp học truyền thống
Lớp học đảo ngược
- GV chuẩn bị giáo án lên lớp.
- HS nghe giảng và ghi chép bài trên lớp.
- HS được giao bài tập về nhà để luyện tập.
- GV thiết kế bài giảng, video, chia sẻ tài liệu...
- HS xem bài giảng, video, tài liệu ở nhà trước khi đến trường.
- HS lên lớp để thực hành, thảo luận với GV và bạn trong lớp.
GV là trung tâm, HS nghe giảng bài thụ động.
HS là trung tâm, HS tự tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm kiến thức. GV chỉ là người định hướng và hướng dẫn.
Không phù hợp với thang tư duy Bloom vì người thầy có nhiệm vụ truyền đạt kiến thức, và theo thang tư duy Bloom thì nhiệm vụ này chỉ ở những bậc thấp (“ghi nhớ” và “hiểu”), còn nhiệm vụ của HS là làm bài tập vận dụng và nhiệm vụ này thuộc bậc cao của thang tư duy (bao gồm “ứng dụng”, “phân tích”, “đánh giá” và “sáng tạo”). 
Phù hợp với thang tư duy Bloom là do đã có sự đảo ngược. Nhiệm vụ của HS là tìm hiểu các kiến thức ở những bậc thấp “ghi nhớ” và “hiểu” còn GV thì giúp đỡ HS trong quá trình khám phá và mở rộng thông tin, đồng thời rèn luyện khả năng tư duy ở những bậc cao hơn gồm “ứng dụng”, “phân tích”, “đánh giá” và “sáng tạo”.
Khả năng tư duy và hoạt động trí não ít hơn.
Đòi hỏi sự phân tích, tư duy và phải dùng nhiều đến hoạt động trí não.
Ứng dụng CNTT, CNDH vào dạy học còn hạn chế.
Ứng dụng CNTT, CNDH vào dạy học nhiều hơn, hiện đại hơn.
HS không có nhiều thời gian để trao đổi với GV nếu không hiểu kỹ bài giảng.
HS không hiểu kỹ bài giảng có nhiều thời gian hơn để trao đổi với GV.
* Ưu điểm của lớp học đảo ngược
Mô hình lớp học đảo ngược có các ưu điểm chính như sau:
Thứ nhất, đó là môi trường học tập linh hoạt. Lớp học đảo ngược cho phép HS lựa chọn cách thức, nơi chốn, thời gian học tập phù hợp với điều kiện của cá nhân. Hơn nữa, GV cũng linh hoạt hơn trong đánh giá việc học tập của HS. Mô hình này giúp người học chủ động học tập, học theo tiến độ bản thân: Khi giảng bài mới trên lớp GV thường nói quá nhanh (đối với HS yếu, kém) hoặc quá chậm (đối với HS học tốt). Khi học qua các tư liệu ngoài giờ lên lớp, HS có thể điều chỉnh tốc độ bài giảng phù hợp với bản thân.
Thứ hai, mô hình dạy học này phù hợp với sự phát triển tư duy của người học. Trong một lớp học đảo ngược, công việc thực hiện tại nhà là xem một video bài giảng, một tư liệu... khi gặp khó khăn thì HS đặt câu hỏi, sau đó khi lên lớp thảo luận với GV thì HS được giải đáp thắc mắc. Tư duy bậc cao được phát huy trong lớp học.
Thứ ba, mô hình này tạo nên văn hóa học tập mới cho HS. Trong các lớp học truyền thống, GV là trung tâm của thông tin. Nếu HS thảo luận câu hỏi thì tất cả đều xoay quanh những ý kiến chủ đạo của GV. Ngược lại, mô hình lớp học đảo ngược buộc phải lấy HS làm trung tâm trong quá trình dạy học. Thời gian ở lớp được dành cho việc thảo luận các kiến thức sâu hơn, tạo ra những cơ hội học tập phong phú hơn cho HS.
Thứ tư, lớp học đảo ngược cung cấp nội dung chương trình học tập một cách có định hướng. Thông qua nội dung này mà tối ưu hóa thời gian ở lớp. GV xác định rõ nội dung và mục đích bài học cho HS, từ đó HS chủ động khám phá, lĩnh hội. HS sử dụng hiệu quả thời gian học tập tại nhà và trên lớp học.
Thứ năm, tương tác giữa HS với HS, giữa GV và HS được nâng cao: Ở lớp học đảo ngược, GV di chuyển bài giảng ra ngoài lớp học nên tiết kiệm được nhiều thời gian cho GV, để GV có thể tương tác với HS hoặc trong các nhóm nhỏ với HS. Kết quả là GV có thời gian thảo luận với mỗi HS trong mỗi bài học, giúp cho GV có thể giải đáp cho HS vào đúng vấn đề tại thời điểm mà HS cần.
Thứ sáu, lớp học đảo ngược phù hợp với sự khác biệt giữa mỗi HS: Với lớp học đảo ngược, nhu cầu cá nhân của người học dễ dàng được đáp ứng. Những HS kém hơn được chú ý và những HS xuất sắc được giao nhiệm vụ thích hợp với khả năng để tiến bộ.
Thứ bảy, lớp học đảo ngược giúp HS nâng cao năng lực phát hiện - giải quyết vấn đề và rèn luyện các kỹ năng cho người học (kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, thuyết trình, đọc, nghiên cứu tài liệu,...).
* Hạn chế của lớp học đảo ngược
Lớp học đảo ngược có hạn chế như sau:
Thứ nhất, không phải bài học nào cũng có thể sử dụng hình thức học tập đảo ngược; không phải gia đình tất cả các em đều có các thiết bị công nghệ thông tin đồng đều; không phải tất cả HS đều dễ dàng truy cập, lấy được bài giảng của GV để nghiên cứu, học tập.
Thứ hai, phụ thuộc vào phong cách học tập của HS và không phải HS nào cũng hứng thú hợp tác và có đủ công nghệ để thực hiện bài học.
Thứ ba, GV mất nhiều thời gian, công sức cho việc soạn bài, thiết kế các hoạt động học tập.
Thứ tư, hiện nay kiểm tra đánh giá chưa có tiêu chí rõ ràng, toàn diện nên GV vẫn đang trong thực trạng “thi gì dạy nấy”, kế hoạch dạy học của GV vẫn chưa đồng bộ.
2.2. Năng lực và sự phát triển năng lực cho học sinh THPT
2.2.1. Khái niệm năng lực
	Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể giải thích khái niệm năng lực như sau: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể [4].
	Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm chính của năng lực là:
- Năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện của người học; 
- Năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...;
- Năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở sự thành công trong hoạt động thực tiễn. 
Có thể coi năng lực là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất của một cá nhân hoặc tổ chức nhằm thực hiện một nhiệm vụ có kết quả tốt.
2.2.2. Cấu trúc năng lực
Năng lực được chia thành hai loại chính, đó là năng lực chung và năng lực đặc thù môn học.
Năng lực chung là những năng lực trong một phạm vi rộng, tạo tiền đề và là cơ sở cần thiết trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Những năng lực chung được hình thành và phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học (năng lực thể hiện trong quan hệ với bản thân); năng lực giao tiếp và hợp tác (năng lực thể hiện trong quan hệ với người khác); năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (năng lực thể hiện trong quan hệ với công việc).
Năng lực đặc thù môn học là sự kết hợp độc đáo các thuộc tính chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên môn và là điều kiện cho hoạt động này đạt kết quả tốt. Môn Sinh học hình thành và phát triển ở HS năng lực sinh học, biểu hiện của năng lực khoa học tự nhiên, bao gồm các năng lực thành phần sau: năng lực nhận thức sinh học; năng lực tìm hiểu thế giới sống; năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.
3. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
3.1. Đối với học sinh 
Hiện nay ít HS hứng thú với môn Sinh học, nhiều em có thái độ bình thường, thờ ơ thậm chí không thích môn học này. Một số HS cho rằng đây là môn học không quan trọng. Qua tìm hiểu về hoạt động học tập của 120 HS trong học tập môn Sinh học, tôi thu được kết quả như sau:
TT
Nội dung
Số ý kiến
SL
%
1
Trước mỗi giờ Sinh học, em thường chuẩn bị như thế nào?
Không chuẩn bị gì
26
21,7
Chỉ học bài cũ
64
53,3
Học bài cũ, làm bài tập, đọc trước nội dung bài mới trong SGK
25
20,8
Học bài cũ, nghiên cứu trước bài mới trong SGK và tìm hiểu thông tin liên quan đến nội dung bài mới qua internet, sách tham khảo,...
5
4,2
2
Khi gặp một kiến thức Sinh học khó mà không được giải đáp ngay bởi GV thì em thường làm gì?
Đợi GV hướng dẫn ra đáp án
32
26,7
Có tìm kiếm tài liệu nhưng nếu không thấy thì bỏ luôn không tìm nữa.
36
30
Hỏi luôn bạn để không phải tìm nhiều nơi
39
32,5
Tự tìm cách suy nghĩ, tra cứu trong sách hoặc trên mạng internet để tìm ra hướng giải bằng mọi cách.
13
10,8
3
Em có thường xuyên tìm đọc, nghiên cứu những tài liệu về Sinh học ngoài giờ học để tìm hiểu thêm kiến thức không?
Không bao giờ
40
33,3
Thỉnh thoảng
65
54,2
Rất thường xuyên
15
12,5
	Qua kết quả khảo sát cho thấy, trên 70% HS không nghiên cứu trước bài mới ở nhà. HS thường chỉ làm bài tập GV yêu cầu, không có thói quen tìm hiểu trước bài mới qua tài liệu. Khi gặp kiến thức khó, đa số HS không tìm cách giải quyết mà ỉ lại, trông chờ vào GV hoặc bạn bè. Sự chủ động trong học tập chỉ có ở một số HS khá, giỏi. Công tác tự lực, tự tìm hiểu của đa số HS nhìn chung còn yếu.
Trong giờ học, nhiều HS lười vận động tư duy, các em thường chỉ chú ý tới việc tiếp thu rồi tái hiện lại những kiến thức GV giảng hoặc đã viết sẵn trong SGK. HS học tập khá thụ động, các em chưa biết đặt câu hỏi cho GV ở những phần kiến thức mà mình chưa hiểu. Nhiều HS có tâm lý ngại học hỏi, lười nêu ý kiến. 
Kết quả khảo sát những hoạt động hàng ngày trên internet của HS
TT
Mục đích và mức độ sử dụng internet
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Rất ít
Không sử dụng
1
Đọc tin tức, giải trí
87
24
9
0
2
Chơi game, lướt facebook...
94
14
12
0
3
Tra cứu tài liệu học tập
15
35
22
48
4
Tham gia khoá học trực tuyến
11
16
28
65
5
Tìm các tài liệu để mở rộng hiểu biết, những hiện tượng thực tế liên quan đến vấn đề đang học
10
27
15
68
Đa số HS hiện nay đều có máy tính hoặc điện thoại kết nối mạng nhưng phân tích số liệu cho thấy phần lớn HS thường xuyên truy cập internet để đọc tin tức, chơi game, xem phim giải trí, lướt facebook, tán gẫu với bạn bè... HS sử dụng internet để phục vụ cho học tập rất hạn chế: chỉ có 15/120 HS (12,5%) thường xuyên tra cứu tài liệu học tập trên internet; 11/120 HS (9,2%) tham gia các khoá học trực tuyến; 68/120 (56,7%) HS chưa bao giờ sử dụng internet tra cứu các tài liệu để mở rộng hiểu biết hoặc những hiện tượng thực tế liên quan đến vấn đề đang học. Hầu như giải trí, giao lưu bạn bè là mục đích chính khi HS sử dụng internet. Một trong những nguyên nhân là vì các em chưa được giao nhiệm vụ, chưa được định hướng, chỉ dẫn cách khai thác tài nguyên có ích trên mạng. Khi nhiệm vụ khai thác tài nguyên trên mạng được cụ thể thành nhiệm vụ học tập chắc chắn các em sẽ có ý thức hơn trong quá trình sử dụng các thiết bị này để phục vụ cho học tập.
3.2. Đối với giáo viên
Một số GV vẫn ưa chuộng sử dụng các phương pháp truyền thống, đánh giá dựa trên mức độ học thuộc bài cũ; dạy học còn nặng về thuyết trình. Rất ít GV tổ chức cho HS tích cực hoạt động. Phần lớn GV chưa chú tâm đến tổ chức rèn luyện các kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng tự học cho HS. GV rèn luyện cho HS những kĩ năng nghe giảng, ghi chép nhưng ở mức độ không thường xuyên. Số GV tổ chức cho HS hoạt động học tập, thảo luận nhóm, giúp HS tích cực, tự lực, sáng tạo tham gia xây dựng bài chưa nhiều. Kiến thức HS nắm được chủ yếu thông qua hoạt động ghi nhớ, làm bài tập. 
Tuy nhiên có một số GV đã chú ý tới “gợi mở” để HS tự tìm tòi, tự lực giải quyết vấn đề hoặc thảo luận đề xuất ý kiến xây dựng bài. Nhiều GV đã áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học, áp dụng các hình thức dạy học tích cực nhưng đa phần chỉ ở mức trình chiếu, ít có sự tương tác. Tuy nhận rõ tầm quan trọng phải rèn luyện các kĩ năng tự học cho HS nhưng nhiều GV chưa biết cách tổ chức cho HS tự học như thế nào và rèn luyện từng kĩ năng cụ thể cho HS. 
Những phương pháp 

Tài liệu đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_van_dung_mo_hinh_lop_hoc_dao_nguoc_vao_bai.doc