Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế - Phần I - Giáo dục công dân lớp 10

Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế - Phần I - Giáo dục công dân lớp 10

 Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Do đó, việc đổi mới giáo dục trung học báo gồm đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm phát triên năn g lực tự học cho người học. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh, đào tạo con người tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực tự giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần xây dựng đát nước giàu mạnh.

Giáo dục công dân (GDCD) phổ thông là môn học đặc biệt quan trọng với học sinh, đóng góp quan trọng trong xây dựng nền tảng hiểu biết và kĩ năng cần thiết để nâng cao đóng góp của từng cá nhân trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thông qua, cung cấp cho học sinh các nội dung toàn diện trong phát triển nhân cách, lối sống, kĩ năng và năng lực bao gồm Giáo dục đạo đức, Giáo dục kĩ năng sống, Giáo dục kinh tế, Giáo dục pháp luật.

Tuy nhiên, mặc dù công tác Giáo dục phổ thông nói riêng và GDCD đã liên tục được cải tiến, đổi mới nhằm hướng đến nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đến nay, nhiều thách thức và rào cản vẫn tồn tại làm hạn chế đến hiệu quả và đóng góp của môn GDCD vào hình thành và phát triển “con người của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với yêu cầu cao về đạo đức, kĩ năng và kiến thức xã hội. Nguyên nhân chính xuất phát từ nhiều phía, bao gồm:

Đối với giáo viên THPT vẫn còn những hạn chế như sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế, lạm dụng công nghệ thông tin vào tiết học, thường ngại tham gia hoạt động chính trị, xã hội; việc phối hợp với các gia đình học sinh và cộng đồng còn nhiều bất cập chủ yếu là thông qua lý lịch học sinh để tìm hiểu các em học sinh, đối với những học sinh cá biệt thì việc phối hợp với gia đình nhà trường chưa cao nên giáo dục đạo đức còn hạn chế, xử lý tình huống sư phạm chưa mền dẻo, tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục chưa có tính hệ thống, cần xây dựng môi trường giáo dục đạo đức kỹ năng sống tốt, xây dựng môi trường học tập và tương tác giữa giáo viên với học sinh ; giáo dục qua các hoạt động khác và các hoạt động trong cộng đồng còn mang tính đối phó qua loa, phát hiện và giải quyết vấn đề chưa kịp thời, chưa sáng tạo và linh hoạt trong những hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, chỉ thực hiện theo kế hoạch đã đề ra chưa có tính sang tạo cũng như khoa học, lối sống, tác phong (kiềm chế cảm xúc, nóng nảy) khả năng tự phê bình và phê bình chưa cao, còn nể nả xuề xòa.

 

doc 23 trang thuychi01 19064
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế - Phần I - Giáo dục công dân lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 TÊN ĐỀ TÀI 
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC
SỬ DỤNG CÁC TRÒ CHƠI TRONG DẠY CÁC QUY LUẬT KINH TẾ - PHẦN I - GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Giáo dục công dân
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài1
1.2. Mục đích nghiên cứu..2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.3
1.4. Phương pháp nghiên cứu3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...3
2.1. Cơ sở lý luận...3
2.1.1. Trò chơi trong công tác đào tạo và giảng dạy.3
2.1.2.Nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các mối quan hệ trong trò chơi dạy học5
2.1.3. Cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng và sử dụng trò chơi5
2.1.3.2. Áp dụng trò chơi dạy học ở trong nước5
2.2. Thực trạng vấn đề...6
2.2.1. Thực trạng về đổi mới giáo dục nói chung..6
2.2.2. Đối với học sinh..6
2.2.3. Về phía giáo viên7
2.3. Các giải pháp thực hiện..8
2.3.1. Sáng kiến áp dụng trong nội dung các quy luật kinh tế ..8
2.3.2. Vận dụng trong thiết kế bài giảng...9
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm .18
2.4.1. Chọn trường thực nghiệm..18
1.4.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm18
1.4.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm...18
3. Kiến nghị, đề xuất20
3.1. Kết luận20
3.2. Kiến nghị, đề xuất.20
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
 Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Do đó, việc đổi mới giáo dục trung học báo gồm đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm phát triên năng lực tự học cho người học. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh, đào tạo con người tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực tự giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần xây dựng đát nước giàu mạnh.
Giáo dục công dân (GDCD) phổ thông là môn học đặc biệt quan trọng với học sinh, đóng góp quan trọng trong xây dựng nền tảng hiểu biết và kĩ năng cần thiết để nâng cao đóng góp của từng cá nhân trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thông qua, cung cấp cho học sinh các nội dung toàn diện trong phát triển nhân cách, lối sống, kĩ năng và năng lực bao gồm Giáo dục đạo đức, Giáo dục kĩ năng sống, Giáo dục kinh tế, Giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, mặc dù công tác Giáo dục phổ thông nói riêng và GDCD đã liên tục được cải tiến, đổi mới nhằm hướng đến nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đến nay, nhiều thách thức và rào cản vẫn tồn tại làm hạn chế đến hiệu quả và đóng góp của môn GDCD vào hình thành và phát triển “con người của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với yêu cầu cao về đạo đức, kĩ năng và kiến thức xã hội. Nguyên nhân chính xuất phát từ nhiều phía, bao gồm: 
Đối với giáo viên THPT vẫn còn những hạn chế như sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế, lạm dụng công nghệ thông tin vào tiết học, thường ngại tham gia hoạt động chính trị, xã hội; việc phối hợp với các gia đình học sinh và cộng đồng còn nhiều bất cập chủ yếu là thông qua lý lịch học sinh để tìm hiểu các em học sinh, đối với những học sinh cá biệt thì việc phối hợp với gia đình nhà trường chưa cao nên giáo dục đạo đức còn hạn chế, xử lý tình huống sư phạm chưa mền dẻo, tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục chưa có tính hệ thống, cần xây dựng môi trường giáo dục đạo đức kỹ năng sống tốt, xây dựng môi trường học tập và tương tác giữa giáo viên với học sinh ; giáo dục qua các hoạt động khác và các hoạt động trong cộng đồng còn mang tính đối phó qua loa, phát hiện và giải quyết vấn đề chưa kịp thời, chưa sáng tạo và linh hoạt trong những hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, chỉ thực hiện theo kế hoạch đã đề ra chưa có tính sang tạo cũng như khoa học, lối sống, tác phong (kiềm chế cảm xúc, nóng nảy) khả năng tự phê bình và phê bình chưa cao, còn nể nả xuề xòa...
Đối với học sinh bên cạnh những học sinh vui thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học, chán học, nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán học, không thích học do mất hứng thú học này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em nói riêng và chất lượng Giáo dục công dân ở bậc THPT nói chung. Nguyên nhân chủ yếu của sự chán nản, lười học của học sinh THPT, cộng thêm với việc học sinh sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của mình,chưa chuẩn bị bài nhoặc do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa gây hứng thú tới học sinhRiêng đối với môn giáo dục công dân có một số học sinh tỏ ra thực sự hờ hững, thiếu nghiêm túc đối với môn học.Với suy nghĩ phiến diện, lệch lạc, phần lớn học sinh chỉ học tủ, học vẹt nhằm đối phó với giáo viên.  Đến khi kiểm tra thì quay cóp, sử dụng tài liệu Hiện tượng học sinh không mặn mà trong việc học môn giáo dục công dân đã tồn tại khá lâu tạo nên sức ì về mặt tâm lí mà muốn khắc phục không phải dễ dàng.
Để giải quyết các vấn đề này, giải pháp môn học là hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của từng nhóm học sinh khác nhau trong nhà trường. Từ đó, đưa ra các giải pháp phù hợp, không chỉ nhằm truyền đạt kiến thức trong sách giáo khoa, mà con nâng cao các kĩ năng tư duy phân tích, tổng hợp, kĩ năng tự học, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng xây dựng kế hoạch,, từ đó, kiến thức được truyền tải đến học sinh một cách tự nhiên và hiệu quả, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. 
Qua 15 năm kinh nghiệm giảng dạy môn GDCD, tôi xác định được rằng giảng dạy thông qua hoạt động tổ chức trò chơi đã và đang mang lại các hiệu quả tích cực để giải quyết tổng hợp các tồn tại và đưa môn GDCD trở thành một điểm nhấn quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Dạy học tổ chức trò chơi là một phương pháp hoạt động thống nhất giữa giáo viên và học sinh để giải quyết vấn đề học tập phát sinh trong nội dung tiết học. Trong đó giáo viên là người nêu vấn đề, dẫn dắt vấn đề và học sinh hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề thông qua các trò chơi, xây dựng các dự án, 
Trong nội dung sáng kiến này, tôi sẽ đề xuất áp dụng sáng kiến này trong phần các quy luật kinh tế - GDCD - lớp 11- THPT( phần 1). Nội dung công dân với sự phát triển kinh tế là chương đặc biệt quan trọng để học sinh hiểu rõ bản chất sự vận hành của hoạt động kinh doanh, mua bán, trao đổi xung quanh đời thường, từ đó, phát triển các hiểu biết nhằm nhận định đúng bản chất định hướng của Đảng và chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế đất nước trong tương lai. Mặc dù vậy, đối với học sinh THPT,các nội dung này là rất khó nếu như không gắn chặt các lý thuyết trong sách giáo khoa với các hiện tượng rất phổ biến trên thực tiễn xung quanh học sinh. Trong khi, số tiết của các quy luật kinh tế trong chương rất ít, tập trung vào lý thuyết bao gồm 9 tiết lý thuyết. 
Xuất phát từ những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài: “Tạo sự hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế - phần 1- giáo dục công dân lớp11”
 1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung: môn giáo dục công dân đặc biệt phần Công dân với kinh tế là một phần khó và khô khan. Vì vậy, Xây dựng và sử dụng được phương pháp học tổ chức trò chơi mới trong các tiết về quy luật kinh tế, thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan nhằm đề xuất đổi mới cách tiếp cận, phương pháp thực hiện và vận hành lớp học, thiết kế thành modul bài giảng, từ đó, tạo ra hứng thú cho học sinh để góp phần nâng cao chất lượng học tập môn GDCD nói riêng và giáo dục THPT nói chung. 
 Cụ thể:
 Xây dựng hệ thống cơ sở pháp lý, lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: “Tạo sự hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế - phần 1- giáo dục công dân lớp11”
 Hình thành được tiếp cận mới là sử dụng trò chơi cho các tiết học về các quy luật kinh tế nhằm nâng cao khả năng tiếp thu và áp dụng của học sinh trong đời sống thực tiễn.
 Thiếp lập được hệ thống phương pháp giảng dạy phù hợp, gần gũi và thân thiện, nâng cao khả năng tư duy, tự học và thực hành cho học sinh, đi kèm với giám sát, đánh giá lớp học của giáo viên dựa trên các đóng góp và hiểu biết của từng cá nhân, nhóm học sinh trong lớp học
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 Đề tài được tập trung nghiên cứu và áp dụng vào Phần Công dân với kinh tế trong chương trình giáo dục công dân lớp 11 THPT.
 Đề tài được áp dụng ở lớp 11A1và 11A12 tại Trường THPT Chu Văn An Năm học 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ truyền tải được ý tưởng trong đề tài nghiên cứu này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát qua các lớp thử nghiệm thực tế và thực hiện một số tiết dạy để từ đó rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận
 Đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng những phương pháp dạy học mới đang là yêu cầu cấp thiết để góp phần thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Luật Giáo dục (ban hành năm 2005), tại Khoản 2 - Điều 5 quy định: “2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. 
Do vậy, việc hình thành các sáng kiến kinh nghiệm về sử dụng trò chơi khi dạy học các quy luật kinh tế GDCD để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập là hoàn toàn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và các chính sách của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
 2.1.1. Trò chơi trong công tác đào tạo và giảng dạy 
 Sự ra đời và phát triển của áp dụng trò chơi trong giảng dạy
	Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho khuynh hướng xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người tiệp khắc I.A. Komenxki (1592-1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu biết. Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi dạy học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi. Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người Đức Ph.Phroebel (1782-1852), Ông là người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có sẵn của trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể chất, làm vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu trên tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với đặc điểm của người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn. Ông đã đưa ra hệ thống trò chơi học tập dùng lời như: trò chơi gọi tên, trò chơi phát triển kỹ năng khái quát tên gọi của cá thể, trò chơi đoán từ trái nghĩa, điền những từ còn thiếu,... Theo ông, những trò chơi này mang lại cho người học niềm vui và phát triển năng lực trí tuệ của chúng 
	Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau. Một số tác giả như Phan Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích Ngọc,... đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò chơi và trò chơi học tập... Những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập được các tác giả đề cập đến chủ yếu nhằm củng cố kiến thức phục vụ một số môn học như: làm quen với môi trường xung quanh.., rèn các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập, không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung của người học.Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của người học. Gần đây trong tác phẩm “trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ. Trong tác phẩm này, bà đã giới thiệu một số trò chơi trí tuệ dành cho trẻ em.Còn tác giả Trần Thị Ngọc Trâm đã thiết kế một hệ thống trò chơi học tập nhằm phát triển khả năng khái quát hóa của trẻ mẫu giáo lớn. 
Theo Đặng Thành Hưng thì những trò chơi giáo dục được lựa chọn và sử dụng trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các nguyên tắc và phương pháp dạy học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên học sinh tìm kiếm và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển các phương thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật, khoa học, ngôn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò chơi dạy học.
2.1.2. Nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các mối quan hệ trong trò chơi dạy học
	Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy học và được định hướng vào mục tiêu, nội dung học tập.Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và được sử dụng bởi các nhà giáo và người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc biệt là của lý luận dạy học các môn học cụ thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tưởng, mục tiêu của nhà giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài bản cứng nhắc như những giờ học.
2.1.3. Cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng và sử dụng trò chơi khi dạy học các quy luật kinh tế GDCD
2.1.3.1. Áp dụng trò chơi dạy học ở các nước trên thế giới 
	Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia thực hiện việc xây dựng và tổ chức trò chơi tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập:
	Tại Nhật Bản, giáo dục đạo đức, pháp luật và kinh tế được tiến hành qua các hoạt động nhóm, nhằm đẩy mạnh sự phát triển hài hòa thể chất, trí tuệ, tự hoàn thiện sự phát triển... Đáng chú ý, Nhật Bản còn giáo dục đạo đức pháp luật và kinh tế thông qua hoạt động hàng ngày, tổ chức các hoạt động trò chơi tạo ra sự hứng thú khi tiếp nhận kiến thức. 
 Singapore cũng bao gồm giáo dục đạo đức và pháp luật và kinh tế, phần kinh tế được lồng ghép vào trong một số giá trị. Các chủ đề trong chương trình môn Đạo đức, pháp luật và kinh tế trong môn gióa dục công dân được thể hiện việc hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực như: Tự nhận thức; Tự quản; Nhận thức xã hội; Quản lý các mối quan hệ; Chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định... 
2.1.3.2 Áp dụng trò chơi dạy học ở trong nước
	Việc xây dựng và áp dụng các trò chơi vào dạy học để phát huy tính tích cực đang được các cấp học thực hiện một cách phổ biến.
	Thực tế ở trường THPT Chu Văn An những năm gần đây nhiều giáo viên ở nhiều môn học như lịch sử, sinh học, ngữ văn, hay các hoạt động của đoàn trường, giáo dục ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp cũng đã xây dựng và sử dụng trò chơi tạo hứng thú cho học sinh trong học tập. Vì vậy tôi cũng mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy học
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thực trạng về đổi mới giáo dục nói chung 
	Trước sự phát triển nhanh chóng của chương trình giáo dục trên thế giới, đặc biệt là dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của thành tựu cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, những kiến thức chương trình hiện hành nhanh chóng trở nên lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu dạy và học trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học. Yêu cầu xây dựng chương trình mới là cấp thiết, đây là nguyện vọng của toàn xã hội; là hướng đi đúng đắn của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, chương trình mới được xây dựng với mục tiêu phù hợp với hệ thống giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết số 88/2014/QH13 và tuyên bố của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc, góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển con người Việt Nam toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mỹ, hướng tới “công dân toàn cầu”. 
	Tại trường Chu Văn An thông qua điều tra cơ bản hàng năm về tình hình học sinh, tôi nhận thấy đa số các em học sinh trong trường đều có ý thức tự giác và cố gắng trong học tập, được gia đình quan tâm tạo điều kiện học tốt. Nhiều em có nhận thức nhanh, sáng tạo (chiếm khoảng 25%). Số học sinh được tuyển vào trường hàng năm đã khá ổn định, số lượng lớn, tạo nên những thuận lợi và cả khó khăn nhất định cho công tác giáo dục, nhưng về cơ bản đây vẫn là một môi trường giáo dục tốt. Việc thực hiện theo chương trình, sách giáo khoa mới trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp trong dạy học bộ môn. Học sinh khối 11 đã được tiếp cận với chương trình, sách giáo khoa và phương pháp mới từ bậc Tiểu học nên có sự tích cực, chủ động trong học tập theo tinh thần đổi mới phương pháp.
 Dù các trường đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong đổi mới phương pháp giảng dạy nhưng vẫn còn “bó khung” trong khuôn khổ của lớp học, giờ dạy nặng tính lý thuyết, thiếu những tư liệu, trích đoạn “người thật việc thật”, những tình huống “thật” cho nên sức thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao. Hơn nữa thời lượng dành cho môn GDCD chỉ có 1 tiết/ tuần mà lượng kiến thức thì khá nhiều, không chỉ riêng nội dung chính thức mà nhiều nội dung giáo dục khác nhau cũng "bị giao" cho môn GDCD để “tích hợp” nên việc dạy học mang nặng tính khái quát, giáo viên không có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho học sinh những nội dung, vấn đề nào đó mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn.
Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả từ phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này, nhất là trong giai đoạn hiện nay. 
2.2.2.Đối với học sinh
 Về phía người học có một thực trạng đáng buồn là có rất nhiều học sinh không nhận thức được hết tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân và cho rằng đây là môn học phụ nên ít quan tâm, đầu tư thích đáng cho việc học. Cá biệt, có một số học sinh tỏ ra thực sự hờ hững, thiếu nghiêm túc đối với môn học này. Với suy nghĩ phiến diện, lệch lạc, phần lớn học sinh chỉ học tủ, học vẹt nhằm đối phó với giáo viên. Đến khi kiểm tra thì quay cop, sử dụng tài liệu 
Hiện tượng học sinh không mặn mà trong việc học môn giáo dục công dân đã tồn tại từ lâu, trở thành “nếp”, tạo nên sức ì về mặt tâm lí mà muốn khắc phục  không phải dễ dàng.
2.2.3. Về phía giáo viên.
 Về phía người dạy, qua thực tế có thể nhận thấy, phần lớn giáo viên vẫn lên lớp bằng phương pháp xưa cũ: thầy đọc, trò chép, tạo cảm giác mệt mỏi, thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo viên lên lớp với tâm lý cho rằng môn của mình là môn phụ nên ít có sự quan tâm, đầu tư trong việc soạn giáo án, chuẩn bị bài lên lớp. Bên cạnh đó, việc thiếu những dẫn chứng sinh động trong thực tế cũng như thiếu những dụng cụ trực quan làm cho các tiết học trở nên khô khan, nhàm chán, không gây được sự hứng thú đối với học sinh. Hệ quả tất yếu là chất lượng tiết học có nhiều hạn chế có tính. 
	Nói về bản thân của các lý thuyết kinh tế sẽ tác động đến tương lai

Tài liệu đính kèm:

  • doctao_hung_thu_cho_hoc_sinh_thong_qua_viec_su_dung_cac_tro_cho.doc