SKKN Vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất – GDCD 10

SKKN Vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất – GDCD 10

Mục tiêu giáo dục của trường phổ thông là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ, đó là những công dân tương lai , những người lao động mới phát triển hài hòa trên các mặt đức dục, trí dục, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản .nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm của công dân trong xã hội mới.

Nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân ( GDCD) là một yêu cầu cơ bản và quan trọng trong sự nghiệp GD & ĐT. Môn GDCD có vai trò rất quan trọng trong việc trang bị cho học sinh một cách có hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực của Triết học duy vật biện chứng, của lí luận về chủ nghĩa xã hội, nhà nước, pháp luật, đạo đức.đồng thời môn học bước đầu hình thành và bồi dưỡng tư tưởng khoa học và cách mạng, phương pháp tư duy logic, biện chứng trong việc phân tích, đánh giá thế giới hiện thực nhất là các hiện tượng xã hội luôn vận động và biến đổi. Bên cạnh đó môn học còn hình thành một cách đúng đắn về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cho mỗi công dân.

 Tuy nhiên, bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay chưa được phụ huynh, học sinh nhận thức một cách đúng đắn. Cho đến nay, quan niệm môn GDCD là môn học rất khô khan, trừu tượng, khó học vẫn còn tồn tại khá nặng nề. Tình trạng học sinh làm việc riêng, đưa môn khác ra học trong giờ GDCD vẫn còn hoặc học sinh có học bài nhưng học theo kiểu đối phó còn rất nhiều, vì thế mà sau khi học xong các em không nhớ được nội dung, mà nếu có nhớ thì cũng chỉ nhớ theo kiểu thuộc lòng, chứ không hiểu nội dung của bài học. Đặc biệt, đối với một số học sinh các em chỉ biết đề cao và chú tâm những môn học theo khối mà coi thường môn GDCD. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tạo hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn GDCD, giúp học sinh có thể hiểu, nắm vững được kiến thức là vấn đề quan trọng đang được các cấp quản lí giáo dục và giáo viên hết sức quan tâm.

 

doc 18 trang thuychi01 5032
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất – GDCD 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Mục tiêu giáo dục của trường phổ thông là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ, đó là những công dân tương lai , những người lao động mới phát triển hài hòa trên các mặt đức dục, trí dục, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản ...nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm của công dân trong xã hội mới.
Nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân ( GDCD) là một yêu cầu cơ bản và quan trọng trong sự nghiệp GD & ĐT. Môn GDCD có vai trò rất quan trọng trong việc trang bị cho học sinh một cách có hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực của Triết học duy vật biện chứng, của lí luận về chủ nghĩa xã hội, nhà nước, pháp luật, đạo đức...đồng thời môn học bước đầu hình thành và bồi dưỡng tư tưởng khoa học và cách mạng, phương pháp tư duy logic, biện chứng trong việc phân tích, đánh giá thế giới hiện thực nhất là các hiện tượng xã hội luôn vận động và biến đổi. Bên cạnh đó môn học còn hình thành một cách đúng đắn về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cho mỗi công dân.
 Tuy nhiên, bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay chưa được phụ huynh, học sinh nhận thức một cách đúng đắn. Cho đến nay, quan niệm môn GDCD là môn học rất khô khan, trừu tượng, khó học vẫn còn tồn tại khá nặng nề. Tình trạng học sinh làm việc riêng, đưa môn khác ra học trong giờ GDCD vẫn còn hoặc học sinh có học bài nhưng học theo kiểu đối phó còn rất nhiều, vì thế mà sau khi học xong các em không nhớ được nội dung, mà nếu có nhớ thì cũng chỉ nhớ theo kiểu thuộc lòng, chứ không hiểu nội dung của bài học. Đặc biệt, đối với một số học sinh các em chỉ biết đề cao và chú tâm những môn học theo khối mà coi thường môn GDCD. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tạo hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn GDCD, giúp học sinh có thể hiểu, nắm vững được kiến thức là vấn đề quan trọng đang được các cấp quản lí giáo dục và giáo viên hết sức quan tâm. 
Trong chương trình GDCD lớp 10 hiện nay, tôi thấy bài “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất ” là một bài học hay thiết thực, cung cấp cho học sinh những hiểu biết nhất định về các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất, hiểu được vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất. Phát triển là khuynh hướng chung của quá trình vận động của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, từ đó biết cách xem xét sự vật và hiện tượng trong sự vận động và phát triển không ngừng của chúng, khắc phục thái độ cứng nhắc, thành kiến, bảo thủ trong cuộc sống cá nhân, tập thể Với dung lượng kiến thức như thế, nếu giáo viên chỉ dạy đơn thuần bằng phương pháp thuyết trình, đàm thoại... thì tiết học sẽ rất nhàm chán, chỉ dừng lại ở việc nhắc lại những kiến thức sách giáo khoa .
Có nhiều phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực của học sinh, trong đó việc vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy môn GDCD là phương pháp thực sự có hiệu quả. Hiện nay dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đang được quan tâm. Thực hiện dạy học tích hợp sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc hình thành và phát triển các năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh. Dạy học tích hợp được hình thành trên cơ sở của những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học, thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục sẽ góp phần phát triển tư duy tổng hợp, năng lực giải quyết vấn đề và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học sinh so với việc học và thực hiện các mặt giáo dục một cách riêng rẽ. Các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội không tồn tại một cách rời rạc, đơn lẻ, chúng là những thể tổng hợp, hoàn chỉnh và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Qua thực tiễn giảng dạy trong nhiều năm của bản thân, tôi đã tiến hành vận dụng tri thức liên môn sử dụng vào nhiều bài giảng rất có hiệu quả. Đặc biệt, tôi tiến hành sử dụng tri thức liên môn trong giảng dạy phần Triết học lớp 10 đã đem lại hiệu quả cao, gây hứng thú học tập cho học sinh, học sinh chủ động tìm hiểu kiến thức từ đó góp phần tạo cho giờ học GDCD sinh động và hấp dẫn hơn. Bởi vậy, tôi chọn đề tài “Vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất – GDCD 10. ” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn GDCD hiện nay. 
1.2.Mục đích nghiên cứu
	Với đề tài này, tôi đưa ra các tri thức của các môn học khác nhau như Lí, Hóa, Sinh, Sử, Địa...và cách sử dụng các tri thức đó trong bài giảng để học sinh chủ động khai thác kiến thức, nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh. Thông qua tri thức của các bộ môn khoa học khác nhau học sinh hiểu được nội dung bài học. Quá trình thực hiện đề tài, tôi mong muốn giờ học GDCD thực sự là một giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục và thực sự tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
Trong đề tài này, tôi chỉ tập trung đưa ra những tri thức liên môn để vận dụng vào dạy Bài 3- GDCD 10: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. 
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận.
1.4.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
1.4.3 Phương pháp thống kê xử lí số liệu.
1.4.4 Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
1.5 Những điểm mới của SKKN.
Năm 2004-2005 tôi đã từng làm SKKN về vận dụng tri thức liên môn trong giảng dạy GDCD 10 đã được Hội đồng khoa học giáo dục xếp loại C cấp tỉnh. Tuy nhiên đề tài đó đề cập đến cả chương trình lớp 10 nên diện rộng hơn. Đề tài cũ đã không còn phù hợp do đã thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa. Từ đề tài cũ này tôi muốn đi sâu vào một bài cụ thể ở phần Triết học – phần được cho là khó nhất, hàn lâm nhất trong chương trình để làm nổi bật hiệu quả của phương pháp vận dụng tri thức liên môn.
 2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận của việc sử dụng tri thức liên môn trong việc giảng dạy môn giáo dục công dân .
	Sử dụng tri thức liên môn trong việc giảng dạy nói chung và giảng dạy môn GDCD nói riêng bắt nguồn từ lí luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng. Điểm xuất phát của quá trình nhận thức là thực tiễn. Đồng thời thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra nhận thức, kiểm tra chân lí. Vì thế quá trình nhận thức có thể biểu diễn theo sơ đồ sau: thực tiễn-nhận thức-thực tiễn, quá trình này diễn ra liên tục, không ngừng. Nhưng con đường nhận thức lại trải qua hai giai đoạn:nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Trong giai đoạn nhận thức cảm tính càng có nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào quá trình phản ánh các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan càng làm cho hiểu biết của con người đầy đủ, toàn diện, chính xác hơn, càng tạo ra cơ sở vững chắc cho nhận thức lí tính. Đối với tri thức khoa học phổ biến và trừu tượng như tri thức của môn GDCD, khi năng lực tư duy của học sinh phổ thông còn bị hạn chế lớn thì việc sử dụng tri thức liên môn lại càng cần thiết.
Để khai thác tri thức liên môn phù hợp với nội dung của mỗi bài dạy, giáo viên cần phải xác định kiến thức cơ bản và trọng tâm của bài, sau đó vận dụng các tri thức bài dạy linh hoạt, hợp lý. Như vậy, để khai thác tri thức liên môn đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về mặt kiến thức, thời gian, lựa chọn, phân loại tri thức phù hợp với nội dung, hình thức tổ chức dạy học của từng bài, từng tiết, từng phần. Đặc biệt, giáo viên phải biết tham khảo ý kiên của đồng nghiệp các bộ môn là yêu cầu hết sức quan trọng, quyết định sự thành công của mỗi tiết học.
 	Ưu điểm của việc dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn đối với học sinh, trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau,vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. 
Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: 
Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu nhất định về những kiến thức liên môn đó. 
Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học vì vậy giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. 
 Đối với bài học này, học sinh biết vận dụng kiến thức các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý ...để giải thích được quá trình vận động phát triển của sự vật hiện tượng. Sau bài học, học sinh hiểu rõ hơn các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều vận động không ngừng, và sự vận động không ngừng ấy chính là phương thức tồn tại của sự vật hiện tượng. Các em cũng giải thích được rằng vì sao sự vật này tồn tại được, vì sao sự vật kia lại không tồn tại được. Muốn tồn tại thì phải như thế nào ? Qua bài học này các em còn biết được các hình thức vận động có thể cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong một điều kiện nào đó chúng có thể chuyển hóa cho nhau.
 Việc nắm chắc bài học này sẽ giúp học sinh học tốt hơn các bài học tiếp theo có liên quan đến quá trình vận động phát triển của sự vât hiện tượng, nắm được những kiến thức cơ bản của Triết học duy vật biện chứng. Học sinh cũng có thể tự rút ra được những bài học bổ ích cho bản thân mình như là muốn tồn tại và phát triển thì phải vận động. Ngoài ra học sinh cảm thấy thú vị về việc hiểu biết môn học này cũng có thể giúp ích cho việc tiếp thu môn học kia, và quan trọng hơn là học sinh có thể thấy được tính phổ biến khái quát hóa của các quy luật, phạm trù của triết học.
 Học sinh cũng có kĩ năng tốt hơn trong việc vận dụng kiến thức nhiều môn học khác nhau trong học tập.
 Qua bài học, học sinh nhận biết và giải thích được sự vận động và phát triển của thế giới vật chất là hoàn toàn khách quan là thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
 Từ nội dung bài học các em có thể vận dụng vào đời sống, lao động sản xuất cũng như việc học tập của bản thân mình.
 Học sinh cũng có được kĩ năng tốt hơn trong việc vận dụng kiến thức nhiều môn học để giải quyết các tình huống thực tiễn đời sống đặt ra.
2.2.Thực trạng dạy và học môn GDCD khi chưa sử dụng tri thức liên môn trong giảng dạy.
Từ thực tiễn quá trình giảng dạy cũng như thông qua việc tìm hiểu, điều tra thông tin từ học sinh tôi nhận thấy nhiều học sinh vẫn chưa yêu thích môn học này, vẫn xem đây là môn phụ nên học chây lười, đối phó nên hiệu quả không cao. Từ việc không thích môn học này cho nên một bộ phận học sinh có biểu hiện sa sút về mặt tư cách đạo đức, thiếu hiểu biết về cuộc sống, về pháp luật, không có tính tự chủ, dễ bị kích động lối kéo vào những thói hư tật xấu của xã hội ...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó: 
Đối với giáo viên bộ môn GDCD nhiều giáo viên không đầu tư cho giáo án, không thật sự tâm huyết trong bài giảng của mình. Do đó dẫn đến các giờ dạy môn GDCD giáo viên không khắc sâu được kiến thức cơ bản và không giáo dục được lòng tin cho học sinh vào những tri thức môn học.Từ chỗ không hiểu bài, dẫn đến học sinh không thích học môn GDCD. Các giờ học tẻ nhạt, nhàm chán học sinh không chú ý học. Điều này cũng có nghĩa môn học không đáp ứng được mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
Một bộ phận giáo viên cũng như học sinh cho rằng, giảng dạy và học tập môn GDCD là một môn học khô khan, trừu tượng và khó tiếp thu vì kiến thức của môn học là kiến thức về triết học, về đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Chính vì thế mà nhiều giáo viên và học sinh thường chán nản. Trên thực tế, bên cạnh những giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì vẫn có nhiều giáo viên không muốn đổi mới hoặc cũng dạy theo hướng đổi mới nhưng còn mang nặng tính hình thức, đối phó... 
Nhiều học sinh chưa coi trọng môn GDCD do vậy học sinh không chịu học, chỉ tập trung học các môn thi để xét đại học. Đặc biệt đối với chương trình GDCD lớp 10 phần Triết học khá trừu tượng, khó so với tư duy của các em vì thế rất khó thu hút sự chú ý của các em nếu GV không đổi mới phương pháp dạy học. Trong những năm trở lại đây Bộ GD&ĐT đã đưa bộ môn này vào thi THPT quốc gia và tham gia xét tuyển Đại học nên nhận thức của bộ môn có sự thay đổi đáng kể, thay đổi cả về nhận thức của GV và HS từ đó GV cũng phải trăn trở tìm ra phương pháp thích hợp để HS có thể thu hút được sự chú ý học của HS đồng thời đảm bảo HS nắm được nội dung kiến thức cơ bản phục vụ cho các kì thi quan trọng.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành khảo sát ở 3 lớp 10 đối với mức độ yêu thích bộ môn GDCD như sau: 
Đối tượng
 điều tra
Thích học
Bình thường
Không thích học
Không tỏ thái độ
105 HS 
15 HS = 14.3%
40 HS = 38.1%
24 = 27.6%
21 = 20%
Xuất phát từ thực tiễn dạy học như vậy và từ chính kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy rằng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện nay cần đào tạo con người một cách toàn diện. Muốn vậy, các em phải hứng thú say mê trong học tập. Để làm được điều đó, bản thân giáo viên phải kích thích năng lực tư duy sáng tạo của học sinh qua các bài học bằng các phương pháp mới. Chính vì vậy, tôi đã chọn vận dụng tri thức liên môn vào một bài dạy cụ thể làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.3 Các giải pháp thực hiện vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy bài 3 – GDCD lớp 10 : Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
2.3.1 Chuẩn bị kiến thức liên môn.
Bài Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất là một bài rất gần gũi với học sinh nếu GV biết khai thác các nội dung kiến thức. Làm được điều này HS sẽ thấy kiến thức Triết học thật gần gũi với cuộc sống nó phản ánh hiện thực khách quan. Đây là tiết học có nguồn tư liệu phong phú, đa dạng, có thể vận dụng kiến thức của nhiều môn học trong chương trình của các em. Vì thế GV phải biết lựa chọn những kiến thức nào thật nổi bật, chính xác, dễ hiểu ... sát với nội dung cần truyền tải đến HS.
Mỗi tri thức liên môn đưa vào bài phải có mục đích rõ ràng, GV cần kết hợp với các thao tác khác như phân tích, tổng hợp, khái quát....
Để đảm bảo tri thức đưa vào chính xác cần tham khảo ý kiến của đồng nghiệp trong các môn học, nhờ đồng nghiệp phân tích giảng giải để bản thân phải thật hiểu mới có thể truyền thụ đến HS theo yêu cầu của bộ môn.
Có nhiều phương pháp dạy học nhưng không phải phương pháp nào cũng được sử dụng trong bài, xem các phương pháp dạy học như một gia vị chế biến món ăn vì vậy cần phải bỏ với lượng vừa phải thì món ăn mới ngon được.
2.3.2. Vận dụng tri thức liên môn vào dạy bài 3 : Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Tiết PPCT 3+4.
2.3.2.1 Mục đích, yêu cầu.
- Về kiến thức: hiểu được khái niệm vận động, phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Biết được vận động là phương thức tồn tại của vật chất; phát triển là khuynh hướng chung của quá trình vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
- Về kĩ năng: phân loại được năm hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất. So sánh được sự giống và khác nhau giữa vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Về thái độ: xem xét sự vật hiện tượng trong sự vận động và phát triển không ngừng của chúng, khắc phục thái độ cứng nhắc, bảo thủ, thành kiến trong cuộc sống.
2.3.2.2 Tài liệu và phương tiện 
- SGK GDCD 10, Bài tập trắc nghiệm GDCD 10.
- Dụng cụ thí nghiệm Lí, Hóa.
- Máy chiếu, tranh ảnh.
2.3.2.3. Phương pháp giảng dạy 
- Nêu vấn đề, đàm thoại, giải thích...
2.3.2.4 Tiến trình bài học 
* Hoạt động khởi động ( dự kiến 5 phút)
 Giáo viên chiếu slides một số hình ảnh về sự chuyển động của sự vật hiện tượng và nêu câu hỏi :Em có nhận xét gì về các sự vật, hiện tượng trên ?
GV đặt câu hỏi : Sau khi HS trả lời, GV nhấn mạnh: Thế giới các sự vật và hiện tượng trong đó có cả chúng ta không ngừng vận động và biến đổi. Ngay lúc này các em có thể cảm thấy nhịp đập của trái tim mình, hơi thở trong lồng ngực, những biến đổi trong cơ thể và tâm hồn các em... cùng với tất cả những gì đang xảy ra xung quanh... đã buộc chúng ta không thể không chú ý đến sự vận động . Vận động theo cách hiểu của Triết học là gì? Có sự vật hiện tượng nào trong thế giới này không vận động không? Giữa sự vận động và phát triển có liên hệ gì với nhau không? Chung ta sẽ cùng nhau làm rõ trong nội dung bài này. 
* Hoạt động hình thành kiến thức.
Hoạt động ( dự tính 40 phút)
Tiết 3: Thế giới vật chất luôn luôn vận động.
- Mục tiêu: Học sinh hiểu được khái niệm vận động theo nghĩa Triết học và các hình thức vận động của thế giới vật chất.
- Hình thức tổ chức dạy học: thảo luận lớp.
- Phương pháp: Vấn đáp gợi mở, sử dụng phương tiện trực quan.
- Kỹ năng sống cơ bản được giáo dục : kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng quan sát, kỹ năng đánh giá.
HOẠT ĐỘNG GIÁO VIÊN – HOC SINH
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Bước 1. Tìm hiểu khái niệm vận động
GV nêu câu hỏi gợi mở.
- Nếu như có người nói “ Con tàu thì vận động, nhưng đường tàu thì không”, ý kiến của em như thế nào?
 GV giảng : 
- Có những biến đổi, chuyển hóa chúng ta có thể trực tiếp quan sát được:
+ Ví dụ học sinh đi học từ nhà đến trường, quạt quay, ô tô chạy, chim bay, nước chảy, lá rụng... 
- Nhưng cũng có những biến đổi, chuyển hoá bằng mắt thường chúng ta không thể thấy được:
+ Ví dụ như : sự biến đổi của các hạt cơ bản, sự biến đổi của dòng điện trong dây dẫn, biến đổi của hòn đá dưới tác động của mưa gió, thuỷ triều... bản thân nó chứa đựng điện tích (-) và (+), sự tương tác giữa (-) và (+) tạo nên bản thân nó.
- Con tàu đang vẫn đang vận động theo vòng quay của trái đất, mặt khác bản thân bên trong nội tại của nó cũng đang vận động . 
 Qua các ví dụ trên HS rút ra định nghĩa vận động theo nghĩa Triết học là gì ?
1. Thế giới vật chất luôn luôn vận động
a.Thế nào là vận động?
Vận động là mọi sự biến đổi (biến hoá) nói chung của các sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên và đời sống xã hội.
Bước 2. Giúp HS giải thích được vì sao lại nói Vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất.
GV nêu ra tình huống : Giả sử trái đất ngừng quay thì điều gì sẽ xảy ra ?
HS vận dụng kiến thức môn Địa lý 10 ( bài 6- Hệ quả chuyển động xung quanh mặt trời của Trái đất) để trả lời câu hỏi này.
TL : Nếu Trái đất chỉ chuyển động quanh mặt rời thì vẫn có ngày và đêm, nhưng khi đó thời gian ban ngày là 182 ngày (tức là 4368 giờ). Với thời gian một ngày dài như vậy thì chắc chắn sẽ không có sự sống trên trái đất. Vì động thực vật không thể chịu đựng được thời gian ban ngày nắng dài như vậy
GV lấy VD khác : Con người cần phải ăn, uống ... thì mới tồn tại được. 
GV sử dụng kiến thức sinh học lớp 11 bài 15 _ Tiêu hóa .
Qua ví dụ này GV yêu cầu HS cho kết luận :
GV yêu cầu HS lấy ví dụ khác.
VD : cây cối ngừng quang hợp sẽ chết. Con người ngừng thở, tim ngừng đập thì không thể tồn tại. Xã hội loài người không sản xuất của cải vật chất thì không tồn tại...
b.Vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất.
- Vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của sự vật hiện tượng.
Bước 3 : Giúp HS nhận biết các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất.
GV hỏi : 
Có mấy hình t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_tri_thuc_lien_mon_vao_giang_day_bai_3_su_van_d.doc