SKKN Xây dựng bài tập gắn với thực tiễn theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học chương1 - Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ở trường THPT

SKKN Xây dựng bài tập gắn với thực tiễn theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học chương1 - Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ở trường THPT

Phân môn Sinh học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới sinh vật, thông qua các bài học, giờ thực hành . của sinh học. Sinh học là để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn, đồng thời là khơi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo, tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Sinh học góp phần giải tỏa thậm chí là xóa bỏ những hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống, cũng như tinh thần của con người. Vậy làm sao để có thể truyền tải hết lượng kiến thức khổng lồ của sinh học đến với các em học sinh và cũng làm sao để các em có thể lĩnh hội được hết lượng kiến thức đó mà không bị nhàm chán, bị gượng ép. Thậm chí bây giờ còn có nhiều học sinh đã không còn sự hứng thú và thậm chí là thờ ơ với bộ môn này. [5]

Đối với môn Sinh học thì đổi mới dạy học nhằm tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, kĩ năng có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của học sinh khiến năng lực hoạt động thực tiễn của học sinh được nâng lên, từ đó học sinh sẽ tự phát hiện và giải quyết một cách chủ động, sáng tạo các vấn đề thực tế có liên quan tới sinh học, làm cho học sinh coi trọng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế và yêu thích môn học. [5].

Tuy nhiên, các bài tập sinh học sử dụng trong nhà trường phổ thông hiện nay còn nặng về kiến thức lí thuyết, nghèo nàn về kiến thức thực tiễn, chưa chú trọng đến việc phát huy khả năng tư duy sáng tạo, lập kế hoạch, giải quyết vấn đề trong học tập sinh học và thực tiễn đời sống, cũng như chưa chú trọng đến việc phát triển năng lực tư duy sinh học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề của học sinh.

 

doc 27 trang thuychi01 16408
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Xây dựng bài tập gắn với thực tiễn theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học chương1 - Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Phân môn Sinh học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới sinh vật, thông qua các bài học, giờ thực hành ... của sinh học. Sinh học là để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn, đồng thời là khơi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo, tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Sinh học góp phần giải tỏa thậm chí là xóa bỏ những hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống, cũng như tinh thần của con người. Vậy làm sao để có thể truyền tải hết lượng kiến thức khổng lồ của sinh học đến với các em học sinh và cũng làm sao để các em có thể lĩnh hội được hết lượng kiến thức đó mà không bị nhàm chán, bị gượng ép. Thậm chí bây giờ còn có nhiều học sinh đã không còn sự hứng thú và thậm chí là thờ ơ với bộ môn này. [5]
Đối với môn Sinh học thì đổi mới dạy học nhằm tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, kĩ năng có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của học sinh khiến năng lực hoạt động thực tiễn của học sinh được nâng lên, từ đó học sinh sẽ tự phát hiện và giải quyết một cách chủ động, sáng tạo các vấn đề thực tế có liên quan tới sinh học, làm cho học sinh coi trọng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế và yêu thích môn học. [5].
Tuy nhiên, các bài tập sinh học sử dụng trong nhà trường phổ thông hiện nay còn nặng về kiến thức lí thuyết, nghèo nàn về kiến thức thực tiễn, chưa chú trọng đến việc phát huy khả năng tư duy sáng tạo, lập kế hoạch, giải quyết vấn đề trong học tập sinh học và thực tiễn đời sống, cũng như chưa chú trọng đến việc phát triển năng lực tư duy sinh học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề của học sinh.
Cho tới nay, PISA là cuộc khảo sát giáo dục duy nhất trên thế giới có tính chu kì (3 năm 1 lần) để đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh ở độ tuổi 15 – độ tuổi kết thúc giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. Nội dung đánh giá của PISA hoàn toàn được xác định dựa trên các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống tương lai, không dựa vào nội dung các chương trình giáo dục quốc gia. Thay vì kiểm tra sự thuộc bài theo các chương trình giáo dục cụ thể, PISA xem xét khả năng của học sinh ứng dụng các kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực chuyên môn cơ bản, khả năng phân tích, lý giải và truyền đạt một cách có hiệu quả khi họ xem xét, diễn giải và giải quyết các vấn đề. [5]
Là người trực tiếp giảng dạy bộ môn sinh học ở trường THPT, Tôi nhận thấy, việc sử dụng hệ thống bài tập gắn với đời sống thực tiễn theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học môn sinh học là rất quan trọng, mang tính thiết thực cao, đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo, của học sinh, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi đã chọn đề tài “Xây dựng bài tập gắn với thực tiễn theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học chương1- Thành phần hóa học của tế bào- Sinh học 10, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ở trường THPT” để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Xây dựng một hệ thống các hiện tượng sinh học thực tiễn có thể vận dụng vào bài giảng trong chương trình sinh học 10.
 Vận dụng hệ thống các hiện tượng sinh học thực tiễn ở trên vào bài giảng, nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho học sinh ... để học sinh không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “ Thuật ngữ khoa học” 
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Quá trình dạy học bộ môn sinh học tại các lớp: 10A6, 10 A7, 10A8, 10A9 của trường THPT Đặng Thai Mai
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tư liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm
Phương pháp quan sát thực tế: quan sát các thắc mắc của học sinh khi quan sát hiện tượng.
Phương pháp hỏi đáp: trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh về những vấn đề liên quan đến nội dung đề tài. 
Phương pháp thống kê, phân tích số liệu 
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. PISA  là gì? 
PISA là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Programmefor International  Student Assessment – Chương trình đánh giá học sinh quốc tế” do Hiệp hội các nước phát triển (OECD) khởi xướng và chỉ đạo, nhằm tìm kiếm các chỉ số đánh giá tính hiệu quả – chất lượng của hệ thống giáo dục của mỗi nước tham gia, qua đó rút ra các bài học về chính sách đối với giáo dục phổ thông. PISA được thực hiện theo chu kì 3 năm một lần (bắt đầu từ năm 2000). Đối tượng đánh giá là học sinh trong độ tuổi 15, độ tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia (15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng – độ tuổi PISA). PISA hướng vào các trọng tâm về chính sách, được thiết kế và áp dụng các phương pháp khoa học cần thiết để giúp chính phủ các nước tham gia rút ra các bài học về chính sách đối với giáo dục phổ thông. [5]
2. Mục đích của Pisa:
Mục tiêu tổng quát của PISA nhằm kiểm tra xem, khi đến độ tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc, học sinh đã được chuẩn bị để đáp ứng các thách thức của cuộc sống sau này ở mức độ nào. Ngoài ra PISA còn hướng vào các mục đích cụ thể sau:
+ Xem xét đánh giá các mức độ năng lực đạt được ở các lĩnh vực đọc hiểu, làm toán và khoa học của học sinh ở lứa tuổi 15.
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của các chính sách đến kết quả học tập của học sinh.
+ Nghiên cứu hệ thống các điều kiện giảng dạy – học tập có ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. [5]
3. Mục đích Việt Nam tham gia PISA
 – Bước tích cực của hội nhập quốc tế về giáo dục.
 – So sánh “mặt bằng” giáo dục quốc gia với giáo dục quốc tế.
 – OECD đưa ra kết quả phân tích và đánh giá về chính sách giáo dục quốc gia và đề xuất những thay đổi về chính sách giáo dục cho các quốc gia.
 – Góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: học tập quốc tế về đánh giá chất lượng giáo dục,  nhất là đổi mới về kĩ thuật và phương pháp đánh giá, đưa ra cách tiếp cận mới về dạy – học, thi và đánh giá.    
 – Là bước chuẩn bị tích cực cho lộ trình đổi mới giáo dục sau 2015
 Định hướng chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức trí lực, thể chất và thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản. Phát triển năng lực cá nhân, tính năng đông, sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân... (Luật giáo dục năm 2015). Quyết định số 16/2006/QĐ, BGD&ĐT ngày 5/5 /2006 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nêu: “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với từng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”
Để đạt được các mục tiêu đó thì khâu đột phá là đổi mới giáo dục, bỏ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp “dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện và xử lí thông tin,... Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác,... dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng như cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai... giúp học sinh nhận thức được những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển của xã hội .
Các câu hỏi của PISA đều là các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời sống thực, nhiều tình huống được lựa chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các thao tác về tư duy, mà còn để học sinh ý thức về các vấn đề xã hội. Dạng thức của câu hỏi phong phú, không chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên đáp án của mình [5]
 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 
 KINH NGHIỆM.
 2.1.Thuận lợi – khó khăn
 2.1.1.Thuận lợi: 
Trong những năm gần đây, vấn đề dạy và học môn sinh học đã và đang đổi mới và là một trong những môn có chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương pháp dạy học. 
Chương trình Sách giáo khoa sinh học mới có nhiều đổi mới về mục tiêu, cấu trúc, sự đổi mới này rất thích hợp cho giáo viên giảng dạy bộ môn sinh học cho học sinh. Thông qua bài học học sinh có thể tự hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo tìm tòi phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học.
2.1.2. Khó khăn:
Đối với học sinh THPT thì chương trình học nặng về cả số môn học và với cả lượng kiến thức khổng lồ. Môn Sinh học cũng thế kiến thức nhiều mà đòi hỏi các em phải học nhớ rất kỹ thì mới có thể làm bất cứ dạng bài tập nào. 
Phòng thiết bị chưa có, thí nghiệm trừu tượng chủ yếu chỉ học lý thuyết khiến các em khó nhớ hơn. 
2.2.Thành công – hạn chế
2.2.1.Thành công: 
Đa số các em vẫn thích học môn Sinh và cố gắng chăm học môn sinh. Học sinh vẫn nhớ được các đặc điểm của sinh học.
 2.2.2. Hạn chế: 
Nhiều học sinh không thể giải thích được hiện tượng trong tự nhiên ,cho dù là rất gần gũi quen thuộc. 
2.3. Mặt mạnh – mặt yếu
2.3.1.Mặt mạnh: 
Các em học sinh đa số đều chăm ngoan và có ý thức học tập. Luôn chịu khó học bài cũ, làm bài tập sinh học và đọc trước bài mới. một số em còn tham khảo nhiều loại sách và rèn luyện làm bài tập.
2.3.2. Mặt yếu: 
Các em chưa biết cách học tập hiệu quả, học tập máy móc không tự tìm hiểu nghiên cứu tìm tòi sáng tạo. 
2.3.3. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
- Lượng kiến thức môn sinh là quá nhiều, thời gian dạy trên lớp đều là dạy lý thuyết, rất ít tiết luyện tập làm bài tập
- Ý thức học tập và tự học của các em chưa cao
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, phòng thực hành chưa có, hoá chất đã hư hại và hết hạn sử dụng
3. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Bài tập của PISA: Các câu hỏi của PISA đều là các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời sống thực, nhiều tình huống được lựa chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các thao tác về tư duy, mà còn để học sinh ý thức về các vấn đề xã hội. Dạng câu hỏi phong phú, không chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên đáp án của mình.
3.1.1 Bài tập thực tiễn: 
 - Việc lồng ghép các bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học, trước hết tạo điều kiện cho việc học và hành gắn liền với thực tế, tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. 
 - Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
 - Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về hệ tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống của con người.
 - Học sinh nắm được những ảnh hưởng của những hoạt động của con người lên hệ tự nhiên. Từ đó, học sinh ý thức được hoạt động của bản thân trong cuộc sống, Đặc biệt là đối với vấn đề môi trường.
 - Xây dựng cho học sinh những kĩ năng quan sát, thu nhập thông tin và phân tích thông tin, dần hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học.
 - Phát triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn và kĩ năng tư duy để giải thích các hiện tượng thực tiễn, luôn chủ động trong cuộc sống.
 - Nuôi dưỡng nhận thức và các quan niệm đúng đắn về các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống.
 - Phát triển sự đánh giá thẫm mĩ.
 - Bài tập về các hiện tượng tự nhiên làm cho học sinh thấy các quá trình sinhhọc luôn xảy ra trong quanh ta. Giải thích được các hiện tượng tự nhiên, học sinh sẽ yêu thích môn sinh học hơn.
 - Giáo dục trí dục  kết hợp hữu cơ với giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức tự tôn dân tộc. [5]
 3.1.2. Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy sinh học: 
Với đặc điểm đa dạng và phong phú của bài tập thực tiễn, việc truyền đạt cho học sinh những kiến thức thực tiễn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, thông qua nhiều hình thức khác nhau, có thể đưa vào khi giảng bài mới thông qua các câu hỏi, cách đặt vấn đề, hay một bài tập nhỏ, và cũng có thể giáo viên thông tin cho học sinh; cũng có thể đưa vào trong các giờ luyện tập thông qua các bài tập hay đưa vào đề kiểm tra với một dung lượng nhất định. Đặc biệt là tổ chức các hoạt động ngoại khóa như các cuộc thi, các câu lạc bộ sinh học,. [5].
3.2 Quy trình thiết kế hệ thống câu hỏi / bài tập theo hướng gắn với đời sống thực tiễn
3.2.1. Lựa chọn đơn vị kiến thức
Với những định hướng đổi mới trong kiểm tra đánh giá môn sinh học ở trường THPT, khi xây dựng hệ thống bài tập sinh học THPT hướng gắn với đời sống thực tiễn, cần lựa chọn những đơn vị kiến thức không chỉ có ý nghĩa về đơn thuần về mặt sinh học mà còn gắn liền với thực tiễn, với đời sống của cá nhân và cộng đồng, phát huy được năng lực khoa học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề ... của học sinh nhưng không quá khó, quá trừu tượng, làm mất đi bản chất sinh học... [5]
 3.2.2. Xác định mục tiêu giáo dục của đơn vị kiến thức
Đơn vị kiến thức lựa chọn khi thiết kế bài tập theo hướng gắn với đời sống thực tiễn cần thực hiện được mục tiêu giáo dục là định hướng phát triển năng lực bao gồm (kiến thức, kĩ năng, thái độ - tình cảm) của môn Sinh học nói riêng và mục tiêu giáo dục ở trường THPT nói chung. [5]
3.2.3. Thiết kế hệ thống bài tập theo mục tiêu 
 + Xây dựng các bài tập tương tự các bài tập đã có 
Khi một bài tập có nhiều tác dụng đối với học sinh, ta có thể dựa vào bài tập đó để tạo ra những bài tập khác tương tự theo các cách như: 
 - Thay các số liệu bằng chữ để tính tổng tổng quát
 - Chọn những chi tiết hay ở các bài tập để phối hợp lại thành bài mới.
 + Xây dựng bài tập hoàn toàn mới
Thông thường, có hai cách xây dựng bài tập mới là: 
 - Dựa vào đặc điểm sinh học và mối quan hệ giữa các vấn đề để đặt ra bài tập mới
 - Lấy những ý tưởng, nội dung, những tình huống hay và quan trọng ở nhiều bài, thay đổi nội dung, cách hỏi, số liệu ....để phối hợp lại thành bài mới. [5]
3.2.4. Kiểm tra thử
Thử nghiệm áp dụng bài tập sinh học đã thiết kế trên đối tượng học sinh thực nghiệm để kiểm tra hệ thống bài tập đã thiết kế về tính chính xác, khoa học, thực tế của kiến thức sinh học, toán học cũng như độ khó, độ phân biệt, .....cũng như tính khả thi, khả năng áp dụng của bài tập. 
3.2.5. Chỉnh sửa
Thay đổi, chỉnh sửa nội dung, số liệu, tình huống ... trong bài tập sau khi đã cho kiểm tra thử sao cho hệ thống bài tập có tính chính xác, khoa học về mặt kiến thức, kĩ năng, có giá trị về mặt thực tế, và phù hợp với đối tượng học sinh, với mục tiêu kiểm tra - đánh giá, mục tiêu giáo dục của môn sinh học ở trường THPT.
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống bài tập
 Sắp xếp, hoàn thiện hệ thống bài tập một cách khoa học.
3.3. Xây dựng và sử dụng một số bài tập gắn với thực tiễn theo phương pháp tiếp cận Pisa trong dạy học sinh học 10.
3.3.1. Bài các nguyên tố hoá học và nước 
Bài tập 1: Đọc đoạn thông tin sau và trả lời các câu hỏi 1, 2, 3, 4....: 
 - Nguyên tố cần thiết cho sự sống, gồm 2 loại:
 + Các nguyên tố đa lượng: C, H, O, N, S, K(trong đó các nguyên tố C, H, O, N chiếm 95% khối lượng cơ thể sống).Vai trò: tham gia cấu tạo nên các đại phân tử hữu cơ như prôtein, lipit, axit nuclêic là chất hóa học chính cấu tạo nên tế bản của tế bào. 
 + Nguyên tố vi lượng( Fe, Cu, Mo, Bo, I).Tham gia vào các quá trình sống cơ bản của tế bào.
	 - Đặc tính và vai trò của nước
 	 +Phân tử nước có tính phân cực, phân tử nước này hút phân tử nước kia, phân tử nước hút các phân tử phân cực khác.
 	 +Vai trò của nước đối với tế bào:Là thành phần cấu tạo nên tế bào, là dung môi hoà tan nhiều chất cần thiết,là môi trường của các phản ứng sinh hóa.Tham gia vào quá trình chuyển hoá vật chất để duy trì sự sống. [1]
	Câu 1: Tại sao cần thay đổi món ăn sao cho đa dạng hơn là chỉ ăn một số ít món ăn yêu thích cho dù là bổ? [2]
Hướng dẫn đáp án:
	 - Mức đầy đủ: Ăn các món ăn khác nhau sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ các nguyên tố vi lượng cho cơ thể. Ngược lại nếu chỉ ăn một số ít món ăn yêu thích thì sẽ không cung cấp đủ các nguyên tố vi lượng cho cơ thể.
 	 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến nguyên tố vi lượng.
 	 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu2: Tại sao nước đá nổi trên nước thường? [5]
Hướng dẫn đáp án:
 	 - Mức đầy đủ: Do khoảng trống giữa các phân tử nước đá lớn hơn nước thường và ở nước đá có mật độ phân tử ít hơn (thưa hơn) so với mật độ phân tử nước thường vì vậy nước đá nổi trên nước thường.
	 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập mật độ phân tử. 
 	 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu 3: Hậu quả gì có thể xảy ra khi ta đưa các tế bào sống vào ngăn đá của tủ lạnh? [1]
Hướng dẫn đáp án:
 	 - Mức đầy đủ: Mật độ phân tử nước ở trạng thái rắn thấp hơn so với ở trạng thái lỏng và ở thể rắn thì khoảng cách giữa các phân tử nước tăng lên. Do vậy, khi đưa tế bào sống vào ngăn đá, nước trong tế bào sẽ đóng băng làm tăng thể tích và các tinh thể nước đá sẽ phá vỡ tế bào.
	- Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến khoảng cách giữa các phân tử nước tăng lên. 
 	 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu 4: Giải thích tại sao không nên để rau, củ, quả trên ngăn đá của tủ lạnh? [1]
Hướng dẫn đáp án:
 - Mức đầy đủ: Khi cho rau, củ, quả trên ngăn đá của tủ lạnh, nước trong tếbàosẽ chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn, dẫn đến làm tăng thể tích tế bào thực vật. Thành phần bên ngoài tế bào thực vật là thành xenlulozơ, do thành không có tính giãn nở cao nên khi thể tích tế bào tăng lên quá nhiều sẽ dẫn đến làm phá vỡ cấu trúc tế bào. Làm cho rau, củ, quả bị hư hại.
 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến tính giãn nở cao nên khi thể tích tế bào tăng lên quá nhiều sẽ dẫn đến làm phá vỡ cấu trúc tế bào.
 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu 5: Tại sao khi tìm kiếm sự sống ở các hành tinh trong vũ trụ các nhà khoa học trước hết lại tìm xem ở đó có nước hay không? [1]
Hướng dẫn đáp án:
 	- Mức đầy đủ: Trong cơ thể, nước vừa là thành phần cấu tạo vừa là dung môi hòa tan nhiều chất cần thiết cho các hoạt động sống của tế bào, đồng thời nước còn là môi trường của các phản ứng sinh hóa. Nước là thành phần chủ yếu trong mọi tế bào và cơ thể sống. Nếu không có nước, tế bào không thể tiến hành chuyển hóa vật chất để duy trì sự sống. Hơn nữa, nước có tính phân cực nên nước có tính chất lí hoá đặc biệt, nên có vai trò rất quan trọng đối với sự sống. Do nước có vai trò quan trọng như vậy mà khi tìm kiếm sự sống ở các hành tinh khác trong vũ trụ, các nhà khoa học trước hết phải tìm xem ở đó có nước hay không.
	 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến nước có tính phân cực nên nước có tính chất lí hoá đặc biệt, nên có vai trò rất quan trọng đối với sự sống.
 	 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu 6: Dựa vào cấu tạo và đặc tính hoá lí của nước hãy trả lời câu hỏi sau: bằng cách nào sự đóng băng của nước có thể phá vỡ các tảng đá? [2]
Hướng dẫn đáp án:
 - Mức đầy đủ: khi nước đóng băng, nước nở ra vì các phân tử nước dịch xa nhau hơn để tạo tinh thể băng. Khi có nước trong kẽ nứt của tảng đá, sự nở ra do đóng băng có thể làm vỡ tảng đá.
 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến sự nở ra do đóng băng có thể làm vỡ tảng đá 
 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
Câu 7: Người ta cho chuối chín vào ngăn đá của tủ lạnh để nó đông cứng lại, sau đó lấy ra để tan đá thấy quả chuối mềm hơn rất nhiều so với lúc chưa để vào tủ lạnh. Hãy giải thích? [5]
Hướng dẫn đáp án:
 	 - Mức đầy đủ: Qủa chuối khi chưa cho vào tủ lạnh, các tế bào chưa bị vỡ nên liên kết với nhau tạo độ cứng nhất định. Khi đưa vào ngăn đá của tủ lạnh, nước trong tế bào quả chuối đông thành đá → tế bào bị vỡ→ khi đá tan tế bào đã vỡ không còn liên kết với nhau như ban đầu nữa→quả chuối sẽ mềm hơn.
 	 - Mức chưa đầy đủ: Giải thích được nhưng không đề cập đến khi đá tan tế bào đã vỡ không còn liên kết với nhau như ban đầu nữa→quả chuối sẽ mềm hơn
	 - Mức không đạt: Không trả lời hoặc trả lời sai.
3.3.2. Hệ thống các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho bài “cacbohidrat và lipit”
Bài tập 2: Đọc đoạn thông tin sau và trả lời câu hỏi 1, 2, 3.............
 + Cacbohiđrat (Đ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_xay_dung_bai_tap_gan_voi_thuc_tien_theo_huong_tiep_can.doc