SKKN Vận dụng một số bài tập tạo hứng thú khi giảng dạy bài thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 trường THPT Quảng Xương 3

SKKN Vận dụng một số bài tập tạo hứng thú khi giảng dạy bài thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 trường THPT Quảng Xương 3

Xã hội ngày càng phát triển, thể hiện một xã hội lớn mạnh. Đất nước ngày một văn minh thể hiện một đất nước tốt đẹp. Một trong những yếu tố tạo nên một xã hội lớn mạnh một đất nước văn minh là lĩnh vực thể dục thể thao, một lĩnh vực có thể là yếu tố quan trọng để đánh giá xã hội, đất nước đó có phải là một đất nước mạnh hay không? Một tỉnh, một huyện, một sở giáo dục, một phòng giáo dục, một trường học có thể coi là mạnh, nhiều thành tích thì vấn đề quyết định chính là thành tích thể thao mà cơ quan đó đã đạt được. Vì vậy thành tích thể thao là một tất yếu để đánh giá một xã hội, một đất nước, một con người.

Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của nền văn hoá xã hội. Nó được coi là phương tiện hữu hiệu giáo dục con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Kết hợp với các mặt giáo dục khác, giáo dục thể chất góp phần xây dựng con người , hoàn thiện hơn về các mặt trí, đức, thể, mĩ, lao

Hoạt động TDTT hay còn gọi là giáo dục thể chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, hoạt động TDTT đã góp phần cải tiến con người, hoàn thiện con người và phát triển con người. Đối với tiến trình tồn tại và phát triển của xã hội TDTT đã trở thành một trong những phương tiện quan trọng để tồn tại xã hội và phát triển xã hội .

Trong phương pháp luận khoa học của mình, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh vị trí quan trọng của thể dục thể thao trong việc phát triển con người một cách toàn diện. Trên cơ sở lý luận chung ấy nước ta cũng không nằm ngoài quy luật chung của nhân loại . Trong nghị quyết của các đại hội đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng về việc xây dựng và phát triển thể thao của nước ta trong giai đoạn mới.

Nhà nước ta luôn quan tâm tới lĩnh vực giáo dục thể chất trong trường học và trong thể thao thành tích cao . Và mục tiêu của hệ thống giáo dục nước ta hiện nay là hướng tới sự phát triển toàn diện về: Đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động. Với mục tiêu là trang bị kiến thức về thể thao, phát triển thể chất, nền tảng thể lực cho học sinh.

Bài thể dục là một bộ phận không thể thiếu trong phát triển thể chất cho học sinh . Bài thể dục không những phát triển về thể chất mà còn giúp học sinh có sự khéo léo, dẻo dai, linh hoạt và cả thể lực . Đồng thời còn có tác động tốt tới các cơ quan chức năng của cơ thể, thông qua nội dung bài thể dục để rèn luyện toàn hệ thống thể chất của cơ thể, tinh thần tập thể, sự thân thiện cho học sinh trong học tập, lao động, và nhiều họat động khác.

Xuất phát từ thực tế trong năm trước tôi cũng được phân công giảng dạy môn giáo dục thể chất của trường THPT.

 

doc 18 trang thuychi01 6861
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vận dụng một số bài tập tạo hứng thú khi giảng dạy bài thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 trường THPT Quảng Xương 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1 . Lý do chon đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, thể hiện một xã hội lớn mạnh. Đất nước ngày một văn minh thể hiện một đất nước tốt đẹp. Một trong những yếu tố tạo nên một xã hội lớn mạnh một đất nước văn minh là lĩnh vực thể dục thể thao, một lĩnh vực có thể là yếu tố quan trọng để đánh giá xã hội, đất nước đó có phải là một đất nước mạnh hay không? Một tỉnh, một huyện, một sở giáo dục, một phòng giáo dục, một trường học có thể coi là mạnh, nhiều thành tích thì vấn đề quyết định chính là thành tích thể thao mà cơ quan đó đã đạt được. Vì vậy thành tích thể thao là một tất yếu để đánh giá một xã hội, một đất nước, một con người. 
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của nền văn hoá xã hội. Nó được coi là phương tiện hữu hiệu giáo dục con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Kết hợp với các mặt giáo dục khác, giáo dục thể chất góp phần xây dựng con người , hoàn thiện hơn về các mặt trí, đức, thể, mĩ, lao
Hoạt động TDTT hay còn gọi là giáo dục thể chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, hoạt động TDTT đã góp phần cải tiến con người, hoàn thiện con người và phát triển con người. Đối với tiến trình tồn tại và phát triển của xã hội TDTT đã trở thành một trong những phương tiện quan trọng để tồn tại xã hội và phát triển xã hội .
Trong phương pháp luận khoa học của mình, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh vị trí quan trọng của thể dục thể thao trong việc phát triển con người một cách toàn diện. Trên cơ sở lý luận chung ấy nước ta cũng không nằm ngoài quy luật chung của nhân loại . Trong nghị quyết của các đại hội đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng về việc xây dựng và phát triển thể thao của nước ta trong giai đoạn mới. 
Nhà nước ta luôn quan tâm tới lĩnh vực giáo dục thể chất trong trường học và trong thể thao thành tích cao . Và mục tiêu của hệ thống giáo dục nước ta hiện nay là hướng tới sự phát triển toàn diện về: Đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động. Với mục tiêu là trang bị kiến thức về thể thao, phát triển thể chất, nền tảng thể lực cho học sinh. 
Bài thể dục là một bộ phận không thể thiếu trong phát triển thể chất cho học sinh . Bài thể dục không những phát triển về thể chất mà còn giúp học sinh có sự khéo léo, dẻo dai, linh hoạt và cả thể lực . Đồng thời còn có tác động tốt tới các cơ quan chức năng của cơ thể, thông qua nội dung bài thể dục để rèn luyện toàn hệ thống thể chất của cơ thể, tinh thần tập thể, sự thân thiện cho học sinh trong học tập, lao động, và nhiều họat động khác.
Xuất phát từ thực tế trong năm trước tôi cũng được phân công giảng dạy môn giáo dục thể chất của trường THPT.
Qua một vài năm giảng dạy tôi thấy học sinh đa số là lười vận động và không có thiện chí để tập luyện để phát triển toàn diện cơ thể nên tôi rất trăn trở chính vì thế mà tôi đã có những kinh nghiệm và có những sáng kiến hay cho nội dung bài thể dục để giúp các em có hứng thú với nội dung bài thể dục. Hiện giờ tôi áp dụng sáng kiến của mình cho toàn bộ học sinh khối 10 cả nam và nữ. 
Từ cơ sở thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng một số bài tập tạo hứng thú khi giảng dạy bài thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 trường THPT Quảng Xương 3” Giúp học sinh yêu thích giờ học giảm sự nhàm chán trong tập luyện
2. Mục đích nghiên cứu
Tạo không khí vui vẻ trong quá trình học tập, rèn luyện, tạo ý thức thói quen tập luyện, tinh thần tập luyện, tinh thần đồng đội, tạo sân chơi lành mạnh và thái độ coi trọng sức khoẻ của bản thân. Kích thích hưng phấn tập luyện với tinh thần “khoẻ để học tập, xây dựng và bảo vệ tổ quốc”
Giúp học sinh nâng cao sức khỏe, thể lực hoàn thiện khả năng vận động, tinh thần đồng đội nhằm phát triển toàn diện thể chất cho các em
3. Đối tượng nghiên cứu 
Học sinh khối 10 trung học phổ thông
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sử dụng lời nói: phân tích- giảng giải – đàm thoại
- Phương pháp trực quan 
- Phương pháp phân nhóm giới tính
- Phương pháp kiểm tra sư phạm
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn bài tập
1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1. Đặc điểm của môn Thể dục nhịp điệu.
Thể dục nhịp điệu hay còn gọi là Aerobic được hiểu từ nguyên bản chữ Hy Lạp cổ đại là không khí cho sự sống (Aero: không khí, Bic: cho sự sống), về sau người ta đưa âm nhạc trong các bài tập nên gọi là Thể dục Aerobic.
Loại hình thể dục nhịp điệu này trở nên rất phổ biến tại Mỹ do nữ tài tử Jane Fonda và Richard Simmons phổ biến các bài tập trên phương tiên truyền thông đại chúng trong thập niên 1980. Thể dục Aerobic là các hoạt động thể dục với cường độ trung bình trong khoảng thời gian dài. Thể dục Aerobic có liên quan đến khả năng huy động và sử dụng oxy trong quá trình trao đổi năng lượng của mô và cơ quan trong cơ thể, việc huy động này tùy thuộc vào mục đích của các bài tập.
Thể dục Aerobic thường tập trung vào phần dưới của cơ thể vì vậy nó có tác dụng đặc biệt giúp săn chắc từ phần bụng trở xuống. Các bài tập thể dục Aerobic đều phải sử dụng một cái bục nhỏ hoặc bóng. Thể dục Aerobic có rất nhiều bước nhảy, nếu có năng khiếu, HLV, VĐV có thể sáng tạo thêm nhiều bước nhảy mới, nhưng phải nhảy trong khuôn khổ, không tùy tiện, tuân thủ nguyên tắc bất di bất dịch của Aerobic là: các bài tập phải được chia ra từng nhóm cơ (Ví dụ bài tập chú trọng vào các cơ đùi trước, sau, những động tác xoay người giúp cơ thể uyển chuyển).
Thể dục nhịp điệu – Aerobic là loại hình thể dục mới nhưng đã được hưởng ứng sôi nổi và đã được đưa vào chương trình giảng dạy chính khóa ở trường THPT. Giảng dạy thể dục nhịp điệu, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau: Thuyết trình, trực quan, đàm thoại, chia nhóm  trong đó phương pháp thuyết trình và trực quan đóng vai trò quyết định, giáo viên là người giúp đỡ, điều khiển và sửa sai cho học sinh khi cần thiết.
Để giảng dạy tốt môn thể dục nhịp điệu người giáo viên phải thực hiện các động tác mẫu một cách chính xác, đúng trình tự, luôn gắn bó và hướng tới người học, khi lên lớp phải gây được sự hưng phấn, hứng thú cho học sinh ham thích tập luyện và tự rèn luyện sức khỏe. Muốn học sinh hứng thú và ham thích tập luyện thể dục nhịp điệu thì giáo viên nên đưa âm nhạc vào giảng dạy. Giảng dạy thể dục nhịp điệu cũng cần chú ý giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đề phòng chấn thương trong luyện tập cho học sinh, phải thường xuyên kiểm tra sân bãi, dụng cụ tập luyện, và cần phối hợp tốt với các môn khác để bổ xung, hỗ trợ cho nhau.
1.1.2 Đặc điểm của âm nhạc trong thể dục nhịp điệu
Thể dục nhịp điệu là môn thể dục vận động các động tác theo nhạc một cách nhịp nhàng và uyển chuyển. Âm nhạc hoặc nhịp đếm kích thích gây cảm xúc dẫn dắt động tác. Tác dụng của thể dục nhịp điệu giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, trí lực tinh thông, làm việc hiệu quả. Khả năng dẻo dai và bền sức cũng được khơi thông khi tập thể dục nhịp điệu thường xuyên. Thể dục nhịp điệu giúp nâng cao khả năng múa hát và vận động, khả năng nghe nhạc nhịp nhàng, đẩy lùi được căn bệnh béo phì, lười vận động, tự kỷ. 
Tùy theo lứa tuổi và trình độ để chọn loại nhạc phù hợp. Đối với lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông dung nhạc có nhịp 2/4 tiết tấu lúc đầu chậm, sau đó vừa và cuối cùng nhanh. Có thể chọn nhạc Rap hoặc Dissco của nước ngoài, tuy nhiên nên chọn nhạc Việt Nam phù hợp và gần gũi, dễ tập hơn. Tuy nhiên khi ghép nhạc cho học sinh cần chú ý:
- Chỉ nên ghép nhạc khi học sinh đã nhớ và thực hiện được động tác.
- Giáo viên phải hướng dẫn học sinh cách đọc nhạc.
- Giáo viên nên làm mẫu động tác ghép nhạc trước để học sinh quan sát.
- Lúc đầu giáo viên vừa mở nhạc vừa xen kẽ đếm nhịp để giúp học sinh giữ nhịp.
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý
* Hệ thần kinh: Hệ thần kinh có vai trò quan trọng trong việc điều hòa và thống nhất mọi hoạt động của các cơ quan tổ chức trong cơ thể. Hệ thần kinh cao cấp hoạt động ổn định và đã được hoàn thiện, chức năng phân tích tổng hợp của hệ thần kinh đạt tới mức phát triển hoàn chỉnh, tính linh hoạt của hệ thần kinh cao, hiểu biết được mở rộng, trí tuệ được nâng cao. Hoạt động của hệ thần kinh thể hiện rõ nét hơn, có khát vọng đạt được kết quả trong mọi lĩnh vực. Tập luyện thể dục nhịp điệu kết hợp hài hòa giữa các nhân tố kích thích bên trong và bên ngoài đó tạo tiền đề cho việc tập luyện có hiệu quả tối đa đối với người tập.
* Đối với hệ tim mạch: Máu chảy qua tim theo các động mạch, đi khắp cơ thể cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng tới các tế bào của cơ thể, thải các chất độc hại cũng như vận chuyển các chất khác nhau từ cơ quan này đến cơ quan kia rồi lại trở về tim tạo thành một hệ thống nhất.
Ở lứa tuổi này ảnh hưởng rõ rệt đến chức năng hô hấp, cơ quan hô hấp phát triển hoàn thiện, hô hấp sâu hơn, kích thước tim cũng tăng lên. Mạch chậm hơn, hệ tim mạch được điều hòa qua cơ chế thần kinh – thể dịch hoàn thiện hơn. Do vậy có thể đáp ứng những đòi hỏi thể lực trong tập luyện TDTT.
* Hệ vận động: Chiều cao phát triển chậm hơn bề ngang, các xương chủ yếu đã được cốt hóa, bộ xương đã vững chắc ít bị cong vẹo hơn do đó có thể tập luyện các kỹ thuật khó, khả năng gắng sức cao. Hệ cơ phát triển mạnh mẽ đặc biệt là cơ vân, sức mạnh cơ tăng lên đáng kể, ở lứa tuổi này sức mạnh cơ của nam tăng gấp 2 lần nữ. Các chức năng của lứa tuổi này hoàn thiện rất tốt cho việc tập luyện TDTT.
Các bài tập thể dục Aerobic có khả năng làm trẻ hoá các khớp xương, các đĩa sụn, cột sống, đảm bảo cung cấp và nuôi dưỡng chúng tốt hơn, loại bỏ bớt lượng muối thừa trong chúng.
Trong các giờ tập luyện, các bài tập thể lực làm tăng khả năng cung cấp máu cho các cơ, tăng số lượng sợi cơ bằng con đường tách dọc sợi cơ. Các sợi cơ riêng biệt sẽ trở nên to và chắc hơn, làm giảm lượng mỡ thừa giữa các bó cơ.
* Hệ tiêu hoá: Tập luyện thường xuyên bằng các bài tập thể dục Aerobic có cường độ và thời gian thực hiện tương đối lớn làm tăng nhanh quá trình trao đổi chất và tiêu hoá giúp cho đường ruột làm việc tốt hơn. Tốt nhất nên bắt đầu tập luyện sau khi ăn khoảng 2 - 3 giờ lúc đó thức ăn bắt đầu được tiêu hoá ngấm vào máu đưa đến các cơ quan của hệ tiêu hoá. Còn nếu tập luyện ngay sau khi ăn thì phần lớn máu sẽ đi vào các cơ bắp và lúc đó các cơ quan của hệ tiêu hoá sẽ ở trong trạng thái không đủ máu, thiếu chất dinh dưỡng.
* Tâm lý: Tâm lý và vận động tích cực có mối liên hệ mật thiết với nhau, có liên quan tới các đặc điểm về tâm sinh lý của cơ thể. Có nhiều khảo sát khoa học chứng minh rằng hoạt động thể dục thể thao có tác động lớn đến tâm lý của con người thực tế đã cho thấy ở những đứa trẻ một tuổi có biểu hiện các hoạt động vận động ở mức độ thấp thì sẽ có các chỉ số bất lợi ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý sau này của trẻ. Trong điều kiện không có sự vận động thì não dường như không nhận được những thông tin phản hồi do số lượng các tín hiệu thần kinh bị suy giảm. Còn nếu thiếu hụt những kích thích về những xúc cảm cũng như các mối tương quan xã hội thì nó trở thành nhân tố nguy hiểm sẽ gây rối loạn tâm lý như: Lo lắng ảo giác, hoang tưởng, ăn không ngon 
Nếu được tập luyện lâu dài thể dục Aerobic có thể ảnh hưởng lớn đến việc tạo dựng nhân cách, nâng cao sức khoẻ, nâng cao khả năng chống lại bệnh tật, tạo dáng đẹp, khoẻ khoắn và tự tin. 
Dưới tác động của các bài tập nói chung, con người trở nên năng động không chỉ trong thể thao mà cả các lĩnh vực hoạt động khác. Con người trở nên năng động có ý chí hơn, duyên dáng, hấp dẫn và cứng rắn hơn trước những tai hoạ, vui vẻ và hoà nhã với những người, sinh vật, thiên nhiên xung quanh mình.
Đặc điểm của quá trình nhận thức trong dạy học động tác
Dạy và học là hai mặt không thể thiếu được của quá trình dạy học. Hoạt động của người giáo viên nhằm lãnh đạo, tổ chức và điều khiển quá trình nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh. Để quá trình dạy học đạt kết quả cao thì nó phải tuân theo một hệ thống logic, vấn đề ở đây là cần lựa chọn sắp xếp phối hợp theo một trình tự hợp lý thống nhất như thế nào để các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các hình thức tổ chức nhận thức và hoạt động, các thao tác dạy học đạt hiệu quả cao cho học tập.
Việc dạy học cần căn cứ vào tình hình thể lực của học sinh để kích thích các em học tập. Dựa vào các đặc điểm, nhiệm vụ của môn học. Để nâng cao chất lượng giáo dưỡng thể chất cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
Tạo được “một vốn vận động ban đầu” làm cơ sở cho hoạt động tiếp theo cao hơn.
Dùng các bài tập dẫn dắt hoặc các phương tiện để tác động có chủ đích để phát triển các năng lực thể chất riêng.
Hoàn thiện và đạt đến một mức độ hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản cần có trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động, thể thao, và trong các lĩnh vực hoạt động khác.
2. Đặc điểm của giảng dạy thể dục nhịp điệu.
Giảng dạy môn giáo dục thể chất nói chung và thể dục nhịp điệu nói riêng người Giáo viên phải chuẩn bị thật tốt giáo án trước khi lên lớp, giáo án phải được soạn trước ngày dạy 3 – 5 ngày để giáo viên có thời gian xem kỹ, có điều chỉnh và bổ sung cho hoàn chỉnh giáo án trước khi tiến hành giảng dạy.
Chuẩn bị tốt dụng cụ sân tập và sử dụng thật có hiệu quả đồ dùng dạy học như tranh vẽ, phim ảnh minh họa để học sinh hiểu rõ, vận dụng tốt động tác. Bản thân giáo viên phải thị phạm động tác nhiều lần, ở nhiều góc độ khác nhau cho học sinh xem. Phân tích giảng giải rõ từng kỹ thuật động tác, từ động tác dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình tập luyện phải chú ý sửa sai cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy luôn chú ý biến đổi đội hình hợp lý và phải bảo đảm sự an toàn tuyệt đối cho học sinh. Yêu cầu học sinh tự giác tập luyện nghiêm túc, tích cực.
Xác định khối lượng vận động hợp lý, chính xác sẽ giúp học sinh nâng cao kỹ thuật động tác nhanh chóng, phát triển tố chất, nâng cao sức khỏe. 
Rút được kinh nghiệm sau mỗi giờ dạy giữa các lớp, cái đã làm được và chưa làm được của nội dung dạy để có điều chỉnh kịp thời, hợp lý hơn.
3. Thực trạng học thể dục nhịp điệu của học sinh hiện nay.
Trường trung học phổ thông Quảng Xương III hiện tại có 30 lớp nên số lượng học sinh rất đông, vì vậy cá nhân mỗi giáo viên có một kế hoạch giảng dạy riêng. 
Khi tiến hành nghiên cứu để tìm ra các bài tập nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh khối 10, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu các giờ học chính khóa về môn thể dục nhịp điệu của các giáo viên khối 10 khác, chúng tôi nhận thấy rằng: Học sinh nói chung và nhất là học sinh nam ngại học thể dục nhịp điệu, mức độ tiếp thu kỹ thuật động tác chậm, không thể vận dụng phát huy trong học tập, nó sẽ tạo tâm lý không tốt làm cho học sinh có thái độ, tinh thần học tập kém, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và kết quả học tập của học sinh, ảnh hưởng đến việc không đạt được mục tiêu của người dạy lẫn người học. Đây là vấn đề cần thiết, có tính cấp bách cần phải được giải quyết. 
4. “Vận dụng một số bài tập tạo hứng thú khi giảng dạy bài thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 Trường THPT Quảng Xương 3”.
4.1. Cơ sở để lựa chọn các bài tập
Để lựa chọn các bài tập trong giảng dạy thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10. chúng tôi dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, sách giáo khoa, các tài liệu liên quan đến môn học. đồng thời thông qua quan sát thực tiễn giảng dạy tại trường, các giáo viên đồng nghiệp trường bạn, các huấn luyện viên tại các câu lạc bộ thể dục aerobic.
Dựa vào các vấn đề đã được đánh giá qua thực tiễn, qua quan sát, qua quá trình giảng dạy và thực tế giảng dạy các năm trước đây. Kết hợp trao đổi với các giáo viên, huấn luyện viên có kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở thực tiễn cho việc lựa chọn các bài tập.
4.2. Lựa chọn các bài tập giảng dạy thể dục nhịp điệu cho học sinh khối 10 trường trung học phổ thông Quảng Xương III.
Sau khi dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên, chúng tôi đã lựa chọn được các bài tập như sau:
Bài tập 1: Nâng đầu gối: Khớp gối và hông gập tối thiếu 900, Khi chân trước gập 900 thì chân sau thẳng, thân thẳng, đùi song song với mặt đất, cẳng chân vuông góc với mặt đất.
Bài tập 2: Đá chân: Đá thẳng cao, biên độ tối đa 1450, gót chân cao hơn vai, chỉ có hoạt động của hông, khớp gối không gập, chân sau thẳng, thân thẳng tự nhiên, hai chân không gập gối.
Bài tập 3: Bật Jack: Một bước bật tách hai chân, hơi khuỵu gối. Khi tiếp đất hai bàn chân rộng hơn vai, hai đầu gối mở hướng về hai phía, thân thẳng tự nhiên
Bài tập 4: di chuyển trên mũi bàn chân. Đứng trên mũi bàn chân, thả lỏng cổ chân và thực hiện cách di chuyển trên mũi bàn chân
Bài tâp 5: Chuyển động vùng hông. Hai tay đưa ra trước hông hơi đẩy về sau và thực hiện di chuyển sang trái, sang phải
Bài tập 6: Nằm sấp chống đẩy hai tay: 
Nằm chống hai tay xuống đất, hai bàn tay các ngón tay hướng về trước và sát vào thân người, hai bàn chân sát nhau. Co khuỷu tay, hạ người sát xuống mặt sàn sao cho thân người và chân xuống cùng lúc, người tạo thành tư thế nằm thẳng ngang.
Bài tập 7: Nằm ngửa gập bụng: Một học sinh ngồi chân co 900 ở đầu gối, hai bàn chân áp sát sàn. Một học sinh khác hỗ trợ bằng cách hai tay giữ ở phần dưới cẳng chân, nhằm không cho bàn chân người được kiểm tra tách ra khỏi sàn
.
Việc vận dụng các bài tập đã lựa chọn chỉ đạt kết quả khi có sự phân bổ hợp lý về lượng vận động theo mục đích tập luyện giảng dạy. Mục đích của việc nâng cao hứng thú khi học thể dục nhịp điệu là để giúp học sinh đạt hiệu quả cao khi kiểm tra kết thúc môn học và từ đó giúp học sinh ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày.
5. Đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa chọn
Được sự giúp đỡ của các giáo viên bộ môn tôi tiến hành điều tra cơ bản ban đầu về thành tích và khả năng hoàn thiện bài thể dục nhiệp điệu khối 10 do tôi trực tiếp giảng dạy gồm 8 lớp, mỗi lớp lấy 15 học sinh nam và 15 học sinh nữ với tổng số học sinh được kiểm tra là 240 em. Qua trao đổi ý kiến thống nhất trong nhóm giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 10 để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả như sau:
Điểm 9 – 10:
+ Quên 1-2 nhịp (nữ): 2-4 nhịp (nam).
+ Tập đúng nhịp và tương đối đúng các kỹ thuật động tác.
+ Thể hiện tốt diễn cảm của bài (mắt nhìn theo tay, động tác nhịp nhàng)
Điểm 7 - 8:
+ Quên 2-4 nhịp (nữ): 4-6 nhịp (nam).
+ Tập tương đối đúng nhịp và đúng kỹ thuật động tác.
+ Thể hiện tương đối tốt diễn cảm của bài.
Điểm 5 – 6:
+ Quên 4-8 nhịp (nữ): 8-12 nhịp (nam).
+ Tập tương đối khớp với nhịp hô và kỹ thuật động tác tương đối đúng.
+ Thể hiện diễn cảm của bài chưa tốt.
Dưới điểm 5:
+ Quên nhiều nhịp
+ Tập chưa khớp với nhịp hô, kỹ thuật động tác không tốt.
+ Chưa có diễn cảm của bài.
Xếp loại Đạt: Từ 5 điểm trở lên.
Xếp loại Chưa Đạt: Dưới 5 điểm
Sau khi đã lựa chọn được các bài tập tôi tiến hành nghiên cứu qua 2 giai đoạn
Giai đoạn 1: Ban đầu thực hiện chương trình giảng dạy chung cho 2 nhóm với cùng 1 giáo án theo chương trình chuẩn kiến thức, kỹ năng và theo hướng dẫn đỗi mới phương pháp dạy học của Bộ GD&ĐT.
Sau khi hoàn thiện xong chương trình của giáo án đề ra giáo viên tiến hành kiểm tra theo tiêu chuẩn đối với 2 nhóm: Nhóm đối chứng (10A1, 10A2, 10A3, 10A4) và nhóm thực nghiệm (10C, 10D1, 10D2, 10D3)
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 1 như sau:
BẢNG 1:
Nhóm
TT
LỚP
Sĩ số
Số học sinh được kiểm tra
Số học sinh được loại đạt(Đ)
Số học sinh loại chưa đạt(CĐ)
nam
nữ
nam
nữ
nam
nữ
Đối chứng
1
10A1
45
15
15
10
11
5
4
2
10A2
45
15
15
9
12
6
3
3
10A3
43
15
15
9
10
6
5
4
10A4
42
15
15
10
11
5
4
Tổng
175
60
60
38
44
22
16
Thực nghiệm
5
10C
43
15
15
11
10
4
5
6
10D1
45
15
15
10
12
5
3
7
10D2
42
15
15
9
12
6
3
8
10D3
42
15
15
9
10
6
5
Tổng
172
60
60
39
44
21
16
Nhìn vào bảng 2 ta thấy thành tích của 2 nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng tương đương nhau. Đây là cơ sở ban đầu để tiến hành áp dụng phương pháp giảng dạy tạo hứng thú tập bài TDNĐ cho cả nam và nữ.
Giai đoạn 2:
Để kiểm nghiệm về phương pháp tập luyện và hệ thống các bài tập đã lựa chọn tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm trên 2 nhóm đối tượng được quy ước như sau:
Nhóm đối chứng: gồm 4 lớp 10A1, 10A2, 10A3, 10A4. các em học theo phân phối chương trình của Bộ GD&ĐT và áp dụng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng kết hợp với đổi mới phương pháp dạy học của Bộ GD&ĐT trong thời gian 2 tháng.
Nhóm thực nghi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_mot_so_bai_tap_tao_hung_thu_khi_giang_day_bai.doc