SKKN Vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực để khai thác và rèn luyện tư duy, kĩ năng phản biện của người học trong một bài đọc văn: “Tỏ lòng” - Phạm Ngũ lão
Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hoá ít nhiều lung lay lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của người thầy.
Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng, khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình yêu và việc tôn vinh những giá trị của đời sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà công nghệ bùng nổ, con người khát khao vượt thoát những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Nếu không biết cách phát triển những năng lực của bản thân, con người sẽ chìm nghỉm trong tăm tối và tuyệt vọng. Một bài học ngữ văn không chỉ bồi đắp cho học sinh những vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm xúc, bài học môn ngữ văn còn đem đến những giá trị thuộc về cách thức tư duy và hành động. Chúng ta có thể đem đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở việc cảm nhận, mà còn có thể khám phá và giúp các em khám phá năng lực của chính mình, đáp ứng đúng mực tiêu giáo dực trong thời đại mới: Con người Việt Nam hiện đại không chỉ phát triển toàn diện về nhân cách, có những phẩm chất và năng lực công dân mà còn phải được phát huy tối đa mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo của mình để thích ứng với cách mạng khoa học công nghệ 4.0, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mặt khác, con người Việt Nam hiện đại cần phải có những năng lực cần thiết để hội nhập quốc tế như năng lực ngoại ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hoá ít nhiều lung lay lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của người thầy. Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng, khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình yêu và việc tôn vinh những giá trị của đời sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà công nghệ bùng nổ, con người khát khao vượt thoát những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Nếu không biết cách phát triển những năng lực của bản thân, con người sẽ chìm nghỉm trong tăm tối và tuyệt vọng. Một bài học ngữ văn không chỉ bồi đắp cho học sinh những vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm xúc, bài học môn ngữ văn còn đem đến những giá trị thuộc về cách thức tư duy và hành động. Chúng ta có thể đem đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở việc cảm nhận, mà còn có thể khám phá và giúp các em khám phá năng lực của chính mình, đáp ứng đúng mực tiêu giáo dực trong thời đại mới: Con người Việt Nam hiện đại không chỉ phát triển toàn diện về nhân cách, có những phẩm chất và năng lực công dân mà còn phải được phát huy tối đa mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo của mình để thích ứng với cách mạng khoa học công nghệ 4.0, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mặt khác, con người Việt Nam hiện đại cần phải có những năng lực cần thiết để hội nhập quốc tế như năng lực ngoại ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác... Qua thực tiễn giảng day, tôi nhận thấy một thực tế, ở nhà trường, môn ngữ văn vẫn được xem như môn học mà người dạy phải mang đến cho các em hệ thống kiến thức hàn lâm, các thầy cô về cơ bản vẫn yêu cầu các em phải bắt buộc thuộc những kiến thức cơ bản, hiểu theo ý nghĩa sao cho chung nhất, để khi thi cử, không đi lệch với đáp án. Nghĩa là học để thi. Tất nhiên, đề thi những năm gần đây đã là dạng đề mở, có sự thay đổi linh hoạt, hướng đến sự phát triển năng lực của người học, nhưng tôi vẫn thấy, học sinh vẫn rơi vào tình trạng học công thức. Đối với việc thi cử, và nhất là với đối tượng học sinh ít có sự tìm tòi, sáng tạo, việc dạy như thế, học như thế là “an toàn”. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn, bên cạnh việc đảm bảo cho các em về vấn đề học – thi – lấy điểm, chúng ta, mỗi thầy cô giáo phải biết khai thác tối đa những ưu thế của môn mình, để không chỉ đáp ứng nhu cầu mang tính chất “thời vụ”, mà con “trồng người” bằng cách khơi dậy những năng lựu mà các em sẽ phát triển trong tương lai. Một trong những yếu tố có thể khai thác và phát triển năng lực người học, đó là TƯ DUY PHẢN BIỆN. Từ thực trạng dạy học văn trong nhà trường còn chưa thực sự đáp ứng tốt mục tiêu giáo dục, còn rơi vào tình trạng, thầy giảng, trò nghe – làm theo, từ thực tế cho đến thời điểm hiện tại, chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục , tôi manh dạn đề xuất một khía cạnh liên quan tới việc phát huy năng lực người học, tôi nghĩ, đây là một việc làm cần thiết. Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin trình bày quan điểm của mình về việc Vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực để khai thác và rèn luyện tư duy, kĩ năng phản biện của người học trong một bài đọc văn: “ Tỏ lòng” - Phạm Ngũ lão 2. Mục đích nghiên cứu Học văn, muốn đem đến bất cứ một điều gì, đầu tiên cũng là giải mã văn bản. Phải tìm con đường giải mã văn bản đơn giản, khoa học, hiệu quả, để đem lại hứng thú, rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn thơ trữ tình, văn xuôi, kịch, văn bản nghị luận, chính luận Khi đọc văn, các em không chỉ chiếm lĩnh tri thức, mà còn tự bồi đắp tâm hồn, có thể vận dụng tri thức, đem các bài học nhân sinh rút ra từ văn bản để làm giàu cho cuộc sống. Tư duy phản biện giúp các em luôn biết đặt câu hỏi, biết phân tích, tổng hợp, tìm ra những vấn đề mới, thay đổi cái nhìn và quan niệm quen nhàm, mòn sáo. Và như thế dạy, học theo hướng tiếp cận tư duy phản biện và phát triển tư duy phản biện ở người học chính là một con đường giải mã văn bản, khám phá năng lực đọc hiểu, năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực làm việc độc lập, năng lực hợp tác của các em học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu Từ một bài đọc văn cụ thể, từ kinh nghiệm trong quá trình giáo dục, đề tài này nghiên cứu và tổng kết về việc cần thiết biết vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực để khơi dậy tư duy phản biện, bồi đắp khả năng phản biện ở học sinh nhằm phát triển các năng lực khác nhau của người học, đáp ứng mực tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp chính: Nghiên cứu, thực nghiệm: + Sưu tầm, tập hợp các tư liệu về mục tiêu giáo dục, các bài viết về tư duy phản biện, về nhu cầu đổi mới con người hiện đại, các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; Tổng hợp các tài liệu sau khi đọc, vận dụng vào việc xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài. + Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin sau khi đã vận dụng vào bài đọc văn các cách thức để khơi dậy tư duy phản biện ở các lớp đề án, lớp đại tràtại trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn – Thanh Hóa. + Thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp và đưa ra kết luận trên cơ sở các thông tin và số liệu đã có. - Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn dịch; Quy nạp. Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực phản biện và hứng thú học tập môn Ngữ Văn của học sinh THPT ở một số trường. Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở một số lớp. Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học. Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn: Dạy học văn phải bắm sát đặc trưng thể loại văn bản. Nghiên cứu đặc trưng thể loại văn học là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học của thi pháp học.Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( PGS. Lê Bá Hán, GS. TS Trần Đình Sử, GS Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên): “ Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ, của nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy” Là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học, thể loại văn học chính là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản, một phương thức chiếm lĩnh đời sống. Đây là một trong những phạm trù cơ bản nhất của sáng tác, nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Người sáng tác muốn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình trước đời sống phải lựa chọn, một cách thức tổ chức nào đó phù hợp. Người tiếp nhận muốn giải mã được tầng hàm nghĩa, thông điệp tư tưởng của nhà văn cũng không thể không xuất phát từ đặc trưng của thể loại. Môn Văn là môn học đặc biệt và đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí. Vì vậy trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh là những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho vấn đề. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy khả năng phản biện của học sinh lại cần hơn bao giờ hết. Khi nhà trường phổ thông trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là đã trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống. 1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT: Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông nêu rõ: - Mục tiêu của bậc THPT là “giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”. - Hướng tới hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực chủ yếu của người học: + Những phẩm chất chủ yếu : yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. + Những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất. 1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học: Phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, cách thức dạy học là những yếu tố căn bản quyết định đến chất lượng giờ dạy, đến hiệu quả tác động với học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếpLựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. - Phương tiện cần thiết và phù hợp: SGK, TLTK, SGV, máy chiếu, giáo án điện tử, bảng - “Phương pháp – theo giáo sư Trần Đình Sử - nói chung là cách thức tác động vào một đối tượng nào đó để đạt đến mục đích. Phương pháp dạy học là một yếu tố trong quá trình dạy học phụ thuộc vào bản chất của hoạt động dạy học. Phương pháp được () hình dung như một hệ thống các nguyên tắc, cách thức, biện pháp được sử dụng trong quá trình dạy học. Trong quan niệm dạy học hiện đại theo mô hình lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể, nhóm hoạt động thực hành có vị trí chủ đạo, nhóm lời nói và trực quan là phụ trợ”. Việc tổ chức các bước lên lớp, vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phải sáng tạo, phù hợp với yêu cầu của bài học, không thể máy móc áp dụng theo một thứ tiêu chuẩn cứng nhắc. 1.4. Xuất phát từ tính tích cực của tư duy phản biện trong việc hình thành phẩm chất và năng lực người học: 1.4.1. Phản biện và năng lực phản biện: Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện bác của mình để chỉ ra những điểm đúng/sai, hợp lí/bất hợp lí, khả thi/ Bất khả thi....của đối tượng vấn đề được đưa ra. Mục đích của phản biện nói chung là mang lại nhận thức đúng đắn, sâu sắc về đối tượng và từ đó co giải pháp phù hợp, hiệu quả tác động lên đối tượng. Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lí chỉ ra các ngụy biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng, vấn đề trong chuyên môn. Năng lực phản biện là năng lực phát hiện ra những bất cập, bất hợp lí... để có thể nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. (Nguyễn Thành Thi, Cần rèn luyện năng lực phản biện trong học tập cho học sinh, sinh viên, Tạp chí khoa học văn hóa và du lịch, số 13, tháng 9 năm 2013). 1.4.2. Vai trò, ý nghĩa của tư duy phản biện, năng lực phản biện. - Tư duy phản biện hay là tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. - Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin. - Tư duy phản biện sẽ thúc đẩy mạnh mẽ nơi con người: + Khả năng quan sát: Quan sát ở đây không phải chỉ là nhìn mà là phải hiểu. Tư duy phản biện sẽ giúp chúng ta nhìn được mặt mà ít người lưu tâm. + Tính tò mò, ham khám phá: Sau khi hiểu được bản chất của vấn đề, người có tư duy phản biện khiến mỗi người biết xem xét chúng ở nhiều góc độ khác nhau, sẽ đặt ra những câu hỏi liên quan, có những chính kiến riêng của mình và chủ động tìm kiếm câu trả lời để đưa ra những quyết định chính đáng cuối cùng. + Tư duy logic: Tư duy logic sẽ giúp kết nối các mắt xích lại với nhau. Tư duy logic bổ trợ cho tư duy phản biện và ngược lại. Có tư duy logic, sẽ nhìn nhận sự việc rõ ràng và có tính hệ thống hơn. Tư duy phản biện thì giúp xem xét, đánh giá vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, giúp chúng ta dễ dàng nhận ra các mối liên quan mật thiết giữa chúng. + Kỹ năng ra quyết định: Ra quyết định là một quá trình bao gồm các giai đoạn: gọi tên vấn đề - xác định đối tượng liên quan – tìm nguyên nhân – đưa ra giải pháp – tổ chức thực hiện. Khi đã có đầy đủ các phân tích, đánh giá cần thiết, sẽ đưa ra được quyết định chặt chẽ và chính xác, giảm tính rủi ro khi thực hiện. + Bản lĩnh, tự tin: Người có tư duy phản biện đặc biệt luôn "hoài nghi" với các sự vật hiện tượng, đặc biệt là những thứ mới gặp lần đầu. Khi đánh giá một vấn đề, họ sẽ không bị chi phối bởi cảm xúc cá nhân (bất kể tiêu cực đến đâu) mà luôn đặt bản thân đứng ở một vị trí khách quan, hợp lý. 1.5. Xuất phát từ nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay : Nhu cầu bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát huy tiềm năng học tập, khả năng phản biện vấn đề. Học sinh ngày nay luôn có nhu cầu tự bộc lộ mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú. Các em không thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cũng không muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích tìm lí lẽ của riêng mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền thống, lạc hậu nên nhiều khi vô tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Chúng ta đã vội vàng phủ nhận những lí lẽ mới mẻ hoặc nặng nề hơn là “kết tội ”. Chính điều đó khiến cho môn văn trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn học sinh. Và quan trọng hơn là chúng ta không kích thích được sự phát triển của năng lực tư duy phản biện cần có của học sinh hiện nay. Với đặc thù của bộ môn ngữ văn, với yêu cầu của thực tiễn khách quan, yêu cầu về con người, yêu cầu về mục tiếu giáo dụcmỗi thầy cô giáo cần phải phát huy những điểm mạnh của bộ môn mình và hướng tới mục đích giáo dục toàn diện. Và để hướng tới mục đích chung mà Điều 2 mục 27 chương 2 luật GD 2005 quy định: “Mục tiêu của giáo dục THPT là nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông, có hiểu biết thông thường về kỷ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học CĐ-ĐH, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề và đi vào cuộc sống lao động” , tôi nghĩ rằng, dạy học ngữ văn nhất định phải biết cách vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, biết cách tổ chức để khai thác tư duy phản biện, rèn luyện kĩ năng phản biện ở người học. 2. Thực trạng vấn đề - Từ quá trình khảo sát tài liệu sách giáo khoa, từ quá trình giảng dạy các ở cả ba khối, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy: + Trong chương trình ngữ văn THPT, các bài đọc văn thuộc đủ thể loại và các kiểu dạng: văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi, kịch); văn bản chính luận, văn bản nhật dụng, văn bản phê bìnhKhi dạy học các bài đọc văn, các thầy cô giáo chủ yếu hướng học sinh đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, từ đó mà hướng tới mục tiêu giáo dục nhận thức, ý thức ở người học là chính. + Nhiều thầy cô giáo chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức, hướng học sinh đến việc hiểu văn bản, thể hiện việc học tập, vận dụng kiến thức đã học để viết bài kiểm tra, thể hiện lại việc nắm kiến thức, hiểu bàichứ chưa có mấy thầy cô chú ý đặc biệt tới việc rèn luyện các kĩ năng khác như đọc, giao tiếp, làm việc nhóm, thể hiện suy nghĩ cá nhân khác với những gì quen nhìn, quen hiểu, thành ra, tính sáng tạo ở người học, sự phát hiện riêng ở mỗi cá nhân chưa được khai thác đầy đủ, các em bị nghĩ theo một lối tư duy, ép phải “thấy” như “người ta thấy”, mà thực sự không thoải mái, không hài lòng, vì các em chưa được đi tìm, chỉ là công nhận kết quả. Cái này một phần ở hệ thống kiến thức phải tiếp nhận còn nặng nề, tâm lí học để thi cử, một phần do lối mòn dạy học tạo nên. + Việc dạy học ngữ văn còn vấp phải những rào cản lớn không thể không kể đến, đó là thói quen thụ động trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, đặc biệt, sự lép vế của các môn xã hội trong xu hướng chọn ngành nghề dấn đến không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, đam mê môn Văn. + Dạy học Ngữ văn chú ý đến phát triển tư duy phản biện cũng vấp phải rào cản từ tư duy người thầy. Có thể nói, không phải giáo viên nào cũng “quen” với việc lắng nghe ý kiến phản biện của học sinh, nhất là những ý kiến trái chiều. Trong xu thế dạy học hướng tới phát triển các năng lực người học, người thầy phải biết lắng nghe và tạo được không gian đối thoại tự do, dân chủ; từ đó mới có thể khuyến khích học sinh dám nghĩ và dám phản biện lại vấn đề trong giờ dạy học văn. Mà điều này, không phải ai cũng làm được. + Trong khi đó, tư duy phản biện lại vô cùng cần thiết, trước hết là ở ngay trong chính những bài thi, đề thi, đáp ứng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT yêu cầu toàn ngành phải có những đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh. Theo đó, hướng kiểm tra, đánh giá, ra đề thi của môn Ngữ văn có mấy điểm tích cực sau đây : * Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong suy nghĩ, luận giải của học sinh. Không có một đáp án duy nhất, chỉ cần học sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ của mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao. * Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới, với yêu cầu chống việc học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học sinh có kiến thức cũng chưa chắc đã làm tốt được mà đòi hỏi phải có khả năng vận dụng kiến thức một cách linh hoạt sáng tạo. - Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn trăn trở, kiếm tìm những giải pháp cho mỗi giờ học, nhằm kéo học sinh trở về với niềm yêu thích môn văn, truyền cho các em hứng thú tìm hiểu các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của một văn bản văn học, gắn văn chương với đời sống, không chỉ học để thi, không biến giờ học chỉ để “tải đạo”, “ngôn chí” mà hướng tới những năng lực khác nhau của người học. Ở phạm vi của đề tài, tôi cố gắng chuyển hoá ý tưởng bằng việc lồng ghép mục tiêu dạy học, tiếp cận và khơi dạy tư duy phản biện, bồi đắp kĩ năng phản biện trong một thiết kế giờ dạy đọc văn. Tôi vận dụng kết hợp các phương pháp, phương tiện, kĩ thuật, kiến thức liên môn trong từng phần của thiết kế. Tôi chú trọng khai thác tư duy phản biện và vận dụng kĩ thuật thảo luận Socratic trong một vài điểm nhấn của bài đọc văn. Bước đầu, tôi đã thu nhận được những kết quả đáng ghi nhận từ đối tương là học sinh của trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề - Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện, tạo không khí
Tài liệu đính kèm:
- skkn_van_dung_ki_thuat_day_hoc_tich_cuc_de_khai_thac_va_ren.doc