SKKN Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học

SKKN Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học

Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những thế hệ con người có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, của dân tộc và phát huy tính tích cực của cá nhân trong việc làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, có sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để đạt được nhiệm vụ đặt ra thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất.

 Với nhà trường phổ thông, ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học.

 Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn.

Đối với môn ngữ văn, đây là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS, góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như : lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác; đồng thời, giúp các em bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học; có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.

Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn tiếng Việt nói riêng còn cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp giúp cho học sinh nói đúng, viết đúng, tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt. Mặt khác dạy tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và và yêu tiếng mẹ đẻ.

 Với phân môn tiếng Việt, nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và liên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi trong việc phân tích văn bản trong phân môn văn và phân môn Tập làm văn.

 

doc 24 trang thuychi01 23314
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những thế hệ con người có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, của dân tộc và phát huy tính tích cực của cá nhân trong việc làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, có sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để đạt được nhiệm vụ đặt ra thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất. 
 Với nhà trường phổ thông, ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học. 
 Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn. 
Đối với môn ngữ văn, đây là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS, góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như : lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác; đồng thời, giúp các em bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học; có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. 
Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn tiếng Việt nói riêng còn cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp giúp cho học sinh nói đúng, viết đúng, tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt. Mặt khác dạy tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và và yêu tiếng mẹ đẻ. 
 Với phân môn tiếng Việt, nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và liên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi trong việc phân tích văn bản trong phân môn văn và phân môn Tập làm văn.
Chương trình ngữ văn 9 dành một thời lượng cho các phần ôn tập, tổng kết, kiểm tra không chỉ ôn tập tổng kết những vấn đề của lớp 9 mà của cả cấp học, ở học kì I. Về tiếng Việt số tiết ôn tập, tổng kết và kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lí có hiệu quả việc ôn tập, tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một đòi hỏi khắt khe đối với việc tổ chức dạy - học ngữ văn 9 (cuối bậc THCS, cuối kì II của chương trình thay sách).
Qua thực tế giảng dạy cũng như qua việc nghiên cứu các nguồn tài liệu dạy học, tôi mạnh dạn đúc rút đề tài: “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học”. Đây là một vấn đề mà trong quá trình dạy học chúng tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn cả về phía giáo viên và học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu 
Trước hết, nghiên cứu đề tài “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học” là để tìm ra biện pháp phù hợp, nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng trong giờ dạy - học phân môn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Bên cạnh đó, nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, rút ra kết luận về các giải pháp nhằm giúp học sinh tiếp nhận bài học một cách hiệu quả trong tiết ôn tập Tiếng Việt; phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong việc thực hiện các hoạt động học tập để phù hợp với mục tiêu dạy học là đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, giúp học sinh phát huy được những năng lực sẵn có. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt trong việc học tập của học sinh.
Bên cạnh đó, mục đích của đề tài còn nhằm để: Hệ thống hóa kiến thức tiếng Việt đã học trong học kì (hoặc học kì II) của các lớp; đồng thời, kết hợp với các bài tập làm văn và các văn bản văn học trong chương trình để rèn luyện các kĩ năng tổng hợp về sử dụng tiếng Việt trong nói và viết; ngoài ra, còn góp phần tạo hứng thú cho HS khi học các tiết ôn tập nói chung và tiết ôn tập tiếng Việt nói riêng trong nhà trường THCS hiện nay.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng chủ yếu mà sáng kiến kinh nghiệm tập trung nghiên cứu là việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn lớp 9.
- Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là một số tiết ôn tập tiếng Việt nói chung và tiết ôn tập tiếng Việt 9 nói riêng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
 1. 4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập những thông tin lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt trong dạy học ở Trung học phổ thông, Trung học cơ sở qua tài liệu, những kiến thức về tâm lí dạy học, tài liệu bồi dưỡng giáo dục thường xuyên
 1. 4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
 Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh thông qua các băng đĩa dạy mẫu.
- Phương pháp điều tra
 Trò chuyện, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về hiệu quả của các phương pháp đổi mới dạy học phân môn tiếng Việt trong dạy học Ngữ văn. 
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
 Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết về ứng dụng các phương pháp dạy học trực quan, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học. Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp, các bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
2. NỘI DUNG 
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Trong sách Lý luận dạy và học có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học (PPDH) mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó, phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất của khái niệm PPDH ở một thời kỳ khác nhau.
Nghị quyết TƯ 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ "đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học bậc học ", Nghị quyết TƯ 2 khóa VII ( 12-1996) nhận định: “phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính tích cưc, chủ động sáng tạo của người học".
Hiện nay, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập, theo tôi định nghĩa sau được xem là phù hợp: "phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học".
Trong tiến trình một tiết dạy – học, nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau, mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy (cô). Đó là những lí do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học: lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được tham gia hoạt động, đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện...
2.1.1.Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực ( PPTC) là phương pháp dạy – học hướng tới hoạt động nhận thức của người học. Tích cực hóa trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú đúng là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập, suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực, độc lập, sáng tạo sẽ phát triển sự tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên (GV), bổ sung các câu hỏi của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề đặt ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích căn kẽ những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
Tính tích cực học tập đạt được những cấp độ từ thấp đến cao:
 + Bắt trước, gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy của bạn.
 + Tìm tòi, độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề; nêu, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề.
+ Sáng tạo, tìm ra cách giải quyết mới, độc lập, hữu hiệu.
2.1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
-Dạy học tích cực là dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của HS;
- Chú trong rèn luyện phương pháp tự học; 
- Tăng cường học tập cá thể với phối hợp học tập hợp tác;
- Kết hợp sự đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh.
 2.1.3. Các phương pháp tích cực cần được vận dụngtrong tiết ôn tập tiếng Việt:
 - Vấn đáp, tìm tòi.
- Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
- Dạy học theo nhómvv.
2.1.4. Quy trình dạy bài ôn tập nói chung
2.1.4.1. Kiểm tra bài cũ
- Yêu cầu học sinh nêu ngắn gọn những điều đã được học ở tiết trước, cho ví dụ minh học hoặc giải các bài tập củng cố, vận dụng kiến thức đã học.
- Hoặc GV không kiểm tra bài cũ mà kết hợp kiểm tra kiến thức cũ trong giờ ôn tập.
- Trong trường hợp bài ôn tập không có câu hỏi củng cố lí thuyết thì giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại lý thuyết có liên quan và cho ví dụ minh họa.
 Ví dụ : Tiết 73 nội dung ôn về các phương châm hội thoại, xưng hô trong hội thoại, cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp. Khi kiểm tra bài cũ, giáo viên đưa ra một tình huống về một phương châm hội thoại bất kì và đưa ra câu hỏi: Em cho biết tình huống trên thuộc phương châm hội thoại nào? Em hiểu gì về phương châm hội thoại đó? Sau câu hỏi này, giáo viên dẫn vào bài. Như vậy khi vào bài sẽ tạo cho học sinh hứng thú trong việc lấy các tình huống thuộc các phương châm hội thoại khác.
 2.1.4.2. Dạy bài mới
 - Khi giới thiệu bài, giáo viên nêu yêu cầu của tiết học, chú ý làm nổi bật mối quan hệ giữa nội dung bài ôn tập.
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh ôn tập lí thuyết (theo quy trình trong SGK), sau đó, hướng dẫn các em trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập củng cố lí thuyết bằng các phương pháp sau:
 + Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập hoặc câu hỏi.
 + Cho HS đọc thầm rồi trình bày lại yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập.
 + Giáo viên giải thích thêm cho rõ yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập (nếu cần) 
 + Tổ chức cho học sinh thực hiện làm mẫu một phần của câu hỏi hoặc bài tập để cả lớp nắm được yêu cầu của giờ ôn tập (nếu đó là bài tập khó). Sau đó, giáo viên tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập theo các hình thức: làm việc cá nhân hoặc trao đổi theo cặp, nhóm để trả lời câu hỏi và thực hiện bài tập. Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau như: trao đổi với học sinh, sửa lỗi trực tiếp hoặc tổ chức cho học sinh góp ý cho nhau và tự đánh giá lẫn nhau trong quá trình làm bài. Cuối cùng là sơ kết, tổng kết, ghi bảng nếu cần thiết.
2.1..4.3. Hướng dẫn luyện tập.
 Đa số các bài ôn tập tiếng Việt đều được thiết kế từng phần lí thuyết đan xen với thực hành. Vì vậy, GV hướng dẫn HS làm bài tập thực hành như cách hướng dẫn luyện tập bài lý thuyết đã nêu ở trên, cần chú ý các dạng bài tập, nếu bài tập lập bảng biểu thì giáo viên chú ý lược đồ cho học sinh và so sánh kiến thức đã học trước đó, rèn kĩ năng thực hành, củng cố, khắc sâu kiến thức của toàn bài ôn tập. 
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên
Trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm các thầy cô được tập huấn về phương pháp dạy học, thảo luận ưu - nhược điểm của các phương pháp, được dự các chuyên đề, chủ đề để ngày càng đáp ứng tốt hơn mục tiêu của việc đổi mới, thực hiện đổi mới có hiệu quả hơn. Trong giảng dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học, nhường việc chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức cho người học. Học sinh được bày tỏ ý kiến, tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn, được trao đổi thảo luận nhiều hơn. Ở các trường THCS đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt có áp dụng một số phương tiện dạy học hiện đại như dạy học bằng công nghệ thông tin. Vì vậy, đã phát huy được tính tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức của học sinh. 
Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp dạy theo phương pháp thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp. Đứng trước một tiết ôn tập, giáo viên dạy Ngữ văn thường hay mắc phải sai sót về thời gian cho tiết học tức là chưa xác định được thời gian dành cho lý thuyết và vận dụng cho học sinh thực hành là bao nhiêu. Trong khi đó, thời gian thì hạn hẹp, kết quả là học sinh chỉ học một cách thụ động, và như vậy là việc dạy học đã đi ngược với phương pháp đổi mới hiện nay.
Nhiều giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp mới vào bài dạy. Đối với tiết ôn tập, nhiều giáo viên chưa áp dụng được nhiều phương pháp dạy học có sáng tạo, linh hoạt, kích thích để các em phát triển tư duy và ngôn ngữ, trau dồi vốn tiếng Việt. 
Sở dĩ, việc dạy tiết ôn tập thế nào cho tốt chưa được nhiều giáo viên dạy ngữ văn quan tâm bởi lẽ, tiết ôn tập là tiết dạy khó, cần phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cho việc soạn giảng. Khi dạy tiết này, giáo viên phải nắm vững kiến thức và truyền đạt một cách có hệ thống, mang tính khái quát cao. Đồng thời, trong các tiết học ôn tập, không khí học tập của học sinh thường kém sôi nổi hơn so với các giờ học kiến thức mới. Vì vậy, đa số giáo viên rất ngại đăng kí thao giảng, dự giờ vào những tiết ôn tập chương hay tổng kết ôn tập cuối kì.
 Khi tổ chức dạy học, thường thì giáo viên hay cho học sinh ôn và hệ thống hết toàn bộ lý thuyết có trong SGK rồi mới cho học sinh làm bài tập ôn luyện, thực hành. Việc tách rời giữa lý thuyết và thực hành như vậy thường khiến cho các giờ học sa đà vào việc ôn tập, củng cố lý thuyết nhiều hơn là làm bài tập thực hành. Điều này dẫn tới việc học sinh thụ động nắm bài, không tích cực trong giờ ôn luyện và kết quả là nhiều học sinh hiểu và nắm kiến thức theo kiểu học vẹt, không sâu.
2.2.2. Về phía học sinh 
Một số yếu tố nữa ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy học của một tiết ôn tập, tổng kết là về phía học sinh. Trừ một số ít học sinh khá, giỏi có ý thức học tập tương đối tốt thì phần lớn học sinh còn lười học, chuẩn bị bài qua loa, hình thức, gây trở ngại lớn tới việc ôn tập. 
Nhiều học sinh vẫn quen lối học thụ động.Vì vậy, các em không thể tích cực chủ động tham gia vào giờ học dẫn tới kết quả học tập trên lớp chưa cao.
2.2.3. Về yêu cầu của việc đổi mới phương pháp và thời lượng chương trình của sách giáo khoa: 
Từ thực tế trên, trong mấy năm gần đây thực hiện chương trình sách giáo khoa hiện hành, tôi nhận thấy, chương trình SGK có nhiều cải tiến theo hướng tích cực. Phương pháp giảng dạy: Thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, trò chủ động tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức đã tạo cho giáo viên và học sinh làm việc trong giờ học nhịp nhàng và cởi mở hơn. 
Đối với các môn học khác nói chung và môn ngữ văn nói riêng , tất cả đều được giảng dạy theo quan điểm tích hợp và tích cực. Bộ môn ngữ văn không tách rời giữa phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn. Điều đó đã tạo cho chúng có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Học tốt phần tiếng Việt không chỉ giúp học sinh có khả năng sử dụng tốt tiếng Việt trong giao tiếp và tạo lập văn bản mà còn giúp học sinh tìm hiểu để thấy cái hay, cái đẹp trong cảm thụ văn chương. Ngược lại, học tốt phần văn học cũng giúp học sinh có thêm kiến thức, kĩ năng để học tốt phần tiếng Việt. Vì vậy, các giờ học tiềng việt, đặc biệt là các tiết ôn tập, tổng kết tiếng Việt nên chú trọng rèn luyện cho học sinh khả năng thực hành, hiểu và vận dụng tốt những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. 
Cấu trúc SGK mới không tách rời phần lý thuyết và phần thực hành. Phần lớn các tiết ôn tập và tổng kết được trình bày bằng một hệ thống các bài tập nhằm giúp học sinh nhận diện, luyện tập, củng cố, nâng cao hơn những kiến thức đã học. Đó cũng là điều kiện thuận lợi hơn cho giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập. Giáo viên hướng dẫn học sinh chú trọng vào việc rèn kĩ năng luyện tập và thực hành. Tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học được nâng cao hơn. Với lượng kiến thức được sắp xếp như vậy, học sinh sẽ đầu tư hơn vào công việc chuẩn bị bài ở nhà. Bởi vì, học sinh phải ôn kĩ lí thuyết trước thì mới có khả năng làm bài tập trên lớp được. Điều này khiến cho giờ học đạt kết quả cao hơn so với khi chưa đổi mới chương trình SGK.
Trong hệ thống chương trình tiếng Việt các lớp 6,7,8,9 tiết ôn tập chiếm một vị trí không nhỏ. Theo chúng tôi, đây là những tiết học vô cùng quan trọng. Ôn tập tiếng Việt tức là giúp học sinh hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học trong một học kì, cả năm học hay cả cấp học. Như vậy, có thể coi giờ học ôn tập là một giờ củng cố, khắc sâu kiến thức tiếng Việt lần thứ hai. Thông qua đó, học sinh tự đánh giá kiến thức của mình và đáp ứng tốt yêu cầu của việc kiểm tra và thi cử. 
Về cấu trúc chương trình, thời lượng giành cho tiết ôn tập, tổng kết được bố trí một cách hợp lí, có hệ thống nhằm tạo điều kiện cho học sinh nắm được bài theo trình tự trong hệ thống ấy. Cụ thể: ở lớp 6 có hai tiết ôn tập tiếng Việt ở cuối chương trình, lớp 7 và lớp 8 đều có 3 tiết ôn tập. Nhưng tới lớp 9, tổng số tiết ôn tập tiếng Việt là 11 tiết. Điều này cho thấy, việc tăng dần thời thời lượng ôn tập ở các lớp 6, 7, 8 và tăng vọt ở lớp 9 là một sự thay đổi lớn của chương trình SGK hiện hành. Tất cả đều nhằm giúp cho học sinh có thể thực hiện tốt việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức trong chương trình đã học, nhất là đối với học sinh lớp 9 chuẩn bị cho các em nắm vững kiến thức để học tiếp chương trình tiếng Việt ở Trung học Phổ thông.
 2.3. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả một giờ dạy – học ôn tập tiếng Việt.
2.3.1. Việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh
* Đối với học sinh
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng tiết ôn tập ngay từ đầu năm học vì kiến thức ôn tập là một hệ thống. chúng tôi cho học sinh lập cuốn "Sổ tay Tiếng Việt", tạo cho các em một thói quen ghi lại những kiến thức cơ bản sau mỗi giờ học tiếng Việt. Đến giờ học, với những câu hỏi dạng lý thuyết như: nêu khái niệm, so sánh, đối chiếu..., các em có thể làm ngay được.
 Ví dụ: Nêu khái niệm của một số biện pháp tư từ từ vựng: điệp ngữ , chơi chữ, ẩn dụ hoán dụ, nhân hóa, so sánh...
 - Để chuẩn bị tốt cho tiết học ôn tập, giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước ở nhà thật kĩ càng. Đây là công việc quan trọng bởi nó phản ánh kết quả học tập của cô và trò trong giờ dạy - học ôn tập. Ở nhà, các em cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo, hệ thống hóa toàn bộ kiến thức, toàn bộ chương trình đã học.
Với học sinh trung bình, yếu, kém giáo viên có thể giới hạn kiến thức vừa sức. Chỉ yêu cầucác em nêu được khái niệm và cho ví dụ minh họa.
 Còn đối với học sinh khá giỏi thì cần yêu cầu các em chuẩn bị được đầy đủ kiến thức cơ bản và nâng cao dưới nhiều hình thức như: chuẩn bị trước đoạn văn mẫu có sử dụng kiến thức đã học một cách chuẩn xác, lập được bản đồ tư duy để khái quát các kiến thức đã học.
	* Đối với giáo viên
 Dạy một tiết ôn tập, chúng ta không sa vào lý thuyết, mục đích là tổ chức cho học sinh thực hành ứng dụng để mang lại hiệu quả thiết thực, luôn gắn với văn bản, làm cho các kiến thức tiếng việt trở thành công cụ để giúp cho việc đọc hiểu và tạo lập văn bản theo tinh thần tích hợp, ưu tiên cho bài tập rèn luyện kĩ năng. Từ yêu cầu tr

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_cac_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_vao_viec_gian.doc