SKKN Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 12
1.1. Ca dao, tục ngữ và thơ ca là những sáng tác văn học có vần điệu, giàu hình ảnh, ngắn gọn, dễ nhớ, phản ánh các hiện tượng đời sống xã hội, sản xuất, các hiện tượng tự nhiên.
1.2. Trong giảng dạy Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12, việc vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca vào bài dạy một cách phù hợp sẽ tạo hứng thú cho học sinh, minh họa cho bài học thêm hấp dẫn, cùng với Atlat Địa lí Việt Nam góp phần giúp học sinh nắm kiến thức thuận lợi hơn và nhớ nội dung bài học sâu sắc hơn .
1.3. Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong giảng dạy Địa lí Tự nhiên Việt Nam dưới góc độ mô tả tự nhiên có tính chất hình ảnh, thuận lợi để học sinh liên hệ với thực tế đời sống.
1.4. Địa lí là môn học thuộc tổ hợp thi môn khoa học xã hội, nên số lượng học sinh nhập tâm, say mê học tập không nhiều. Thêm vào đó, với những Đổi mới trong thi cử và xét tuyển như hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút học sinh học bộ môn Địa lí. Do vậy, việc dạy bộ môn Địa lí gặp không ít khó khăn. Vấn đề đặt ra là: Mỗi tiết học địa lí, giáo viên cần tạo được sự hấp dẫn, có liên hệ thực tế, nhấn mạnh được vai trò quan trọng khi các em có kiến thức địa lí trong cuộc sống.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT LƯƠNG ĐẮC BẰNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG CA DAO, TỤC NGỮ VÀ THƠ CA TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM LỚP 12. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thuỷ Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn Đơn vị công tác: Trường THPT Lương Đắc Bằng SKKN thuộc môn: Địa lí THANH HÓA, NĂM 2017 MỤC LỤC Trang I. MỞ ĐẦU ..... 3 1. Lí do chọn đề tài.......... 3 2. Mục đích nghiên cứu...... 3 3. Đối tượng nghiên cứu....................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu. 4 II. NỘI DUNG... ..................... 4 1. Cơ sở lí luận ....................... 4 2. Thực trạng của vấn đề........ 4 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện..... 5 4. Kiểm nghiệm.................................................... 13 5. Hiệu quả của SKKN.......................................................................... 15 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 15 1. Kết luận. ......................................... 15 2. Kiến nghị......................................... 16 Tài liệu tham khảo........................................................................................... .17 Các đề tài SKKN đã được Sở Giáo dục & Đào tạo đánh giá.......................... 18 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ca dao, tục ngữ và thơ ca là những sáng tác văn học có vần điệu, giàu hình ảnh, ngắn gọn, dễ nhớ, phản ánh các hiện tượng đời sống xã hội, sản xuất, các hiện tượng tự nhiên. 1.2. Trong giảng dạy Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12, việc vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca vào bài dạy một cách phù hợp sẽ tạo hứng thú cho học sinh, minh họa cho bài học thêm hấp dẫn, cùng với Atlat Địa lí Việt Nam góp phần giúp học sinh nắm kiến thức thuận lợi hơn và nhớ nội dung bài học sâu sắc hơn . 1.3. Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong giảng dạy Địa lí Tự nhiên Việt Nam dưới góc độ mô tả tự nhiên có tính chất hình ảnh, thuận lợi để học sinh liên hệ với thực tế đời sống. 1.4. Địa lí là môn học thuộc tổ hợp thi môn khoa học xã hội, nên số lượng học sinh nhập tâm, say mê học tập không nhiều. Thêm vào đó, với những Đổi mới trong thi cử và xét tuyển như hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút học sinh học bộ môn Địa lí. Do vậy, việc dạy bộ môn Địa lí gặp không ít khó khăn. Vấn đề đặt ra là: Mỗi tiết học địa lí, giáo viên cần tạo được sự hấp dẫn, có liên hệ thực tế, nhấn mạnh được vai trò quan trọng khi các em có kiến thức địa lí trong cuộc sống. Một trong nhiều phương pháp gây hứng thú cho học sinh, tôi mạnh dạn đưa ra một kinh nghiệm nhỏ: “Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12” 2. Mục đích nghiên cứu: - Một số hiện tượng, đặc điểm tự nhiên Việt Nam ở một số bài học có liên quan được minh họa bằng một số câu ca dao, tục ngữ và thơ ca. Giải thích nội dung Địa lí được chứa đựng trong các câu ca dao, tục ngữ và thơ ca đó. - Giáo viên và học sinh có thể tham khảo để khắc sâu kiến thức và bài học được thêm sinh động, hấp dẫn. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Phần Địa lí tự nhiên - Sách giáo khoa Địa lí 12 ( Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) - At lát Địa lý Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) - Học sinh lớp 12 – Trường THPT Lương Đắc Bằng. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến bài học trên mạng internet. - Tham khảo qua giáo viên dạy môn ngữ văn của trường THPT Lương Đắc Bằng. - Thông qua việc học sinh tìm tòi thêm các câu ca dao, tục ngữ và thơ ca có liên quan đến bộ môn. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Phần Địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 12 – THPT nghiên cứu về vị trí địa lí , phạm vi lãnh thổ, đặc điểm chung của tự nhiên, vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên. Các hiện tượng, quá trình tự nhiên là sự kết hợp có qui luật, có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất phức tạp, tạo thành một thể thống nhất và hoàn chỉnh. 1.2. Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca vào bài học một cách phù hợp là công cụ để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập.. 1.3. Qua ca dao, tục ngữ và thơ ca cho học sinh thấy được tinh thần lao động và nhận thức khá vững vàng các qui luật tự nhiên liên quan đến sản xuất, đời sống của nhân dân, đồng thời biết vượt lên khắc phục những khó khăn của thiên nhiên 1.4. Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong dạy học liên môn, tạo điều kiện để giáo viên Địa lí và giáo viên Ngữ văn trao kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, lí luận và cơ sở khoa học của việc vận dụng. Vì thế, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm về một đề tài nhỏ, đó là: “Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12” 2. Thực trạng của vấn đề: 2.1. Việc vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12 tôi đã và đang ứng dụng, cùng với Bản đồ treo tường, Atlat Địa lí Việt Nam và hình ảnh liên quan đến mỗi tiết dạy đã giúp học sinh học tập trung hơn, hiểu bài nhanh hơn, nắm được kiến thức trọng tâm, phát triển tư duy, hình thành được mối quan hệ giữa các quá trình tự nhiên, sản xuất,.... 2.2. Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12 tạo hứng thú cho sinh tự tìm tòi, nghiên cứu thêm kiến thức. 2.3. Ca dao, tục ngữ là khả năng nhận thức của người lao động về qui luật tự nhiên trong quá trình lao động. Vì thế, nó mang tính địa phương, phân tích các hiện tượng địa lí còn phiến diện, có nội dung chưa hoàn toàn chính xác về khoa học. Thơ ca có thể đó là cảm nhận riêng của tác giả trước hiện tượng tự nhiên, nhân cách hóa, hoặc diễn tả tâm trạng của tác giả trước các hiện tượng địa lí,...Vì thế, vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12 cần khắc phục khó khăn này, vận dụng kiến thức Địa lí để chỉ ra cái đúng, cái hay và những chỗ chưa chính xác cần hiểu biết trên cơ sở khoa học. 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện: 3.1. Giải pháp Bước 1: Yêu cầu học sinh về nhà tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc trước những câu ca dao, tục ngữ và thơ ca có liên quan đến bài học sắp tới. Bước 2: Bản thân giáo viên tự nghiên cứu, tìm kiến thức trên sách báo, mạng internet, tham khảo qua giáo viên bộ môn Ngữ văn, đưa ra thảo luận trước với giáo viên trong tổ bộ môn. Bước 3: Lựa chọn những câu ca dao, tục ngữ, thơ ca phù hợp với bài học và thời điểm vận dụng. 3.2. Tổ chức thực hiện: Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc và ghi nhanh lại những câu ca dao, tục ngữ và thơ ca đã được chuẩn bị trước. Bước 2: Giáo viên kiểm tra, lựa chọn những nội dung phù hợp và bổ sung thêm những nội dung mà đã được chuẩn bị trước. Bước 3: Trong quá trình dạy bài học mới, giáo viên có thể đưa ra những nội dung về ca dao, tục ngữ và thơ ca phù hợp. Những câu ca dao, tục ngữ và thơ ca có thể vận dụng theo bài trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12: * Bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ Ví dụ: Đọc hai câu thơ sau của nhà thơ Tố Hữu: “Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang Cà Mau, mũi đất mỡ màng phù sa” Câu thơ giúp học sinh nhớ được điểm cực Bắc (Hà Giang) và điểm cực Nam (Cà Mau) nước ta. * Bài 6,7: Đất nước nhiều đồi núi Ví dụ 1: Trong bài thơ “Tây Tiến” nhà thơ Quang Dũng đã nêu lên được đặc điểm núi cao, hiểm trở, phức tạp, có sự chia cắt mạnh qua đoạn thơ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Nguyên nhân là do vùng núi Tây Bắc nước ta chịu ảnh hưởng mạnh nhất của vận động Tân kiến tạo, vận động tạo núi Anpơ-Himalaya. Ví dụ 2: Ca dao có câu: “Đường lên Mường Lễ bao xa Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” Câu ca dao trên đề cập đến địa hình vùng núi Tây Bắc cao, hiểm trở, xa xôi và rất nguy hiểm, đó là khi lên Mường Lễ (thị xã Mường Lay) Ví dụ 3: Địa hình các cao nguyên ba dan xếp tầng rộng lớn của sườn Tây Trường Sơn Nam, được nhà thơ Sơn Thu viết trong bài thơ “Viết cho người con gái Đắc Mil”, có đoạn: “Yêu biết mấy miền cao nguyên lộng gió Tây Nguyên xanh, con suối chảy không ngừng” Ví dụ 4: Ca dao có câu: “Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm” Câu ca dao nói về đồng bằng sông Cửu Long có địa hình khá bằng phẳng, với những cánh đồng “thẳng cánh cò bay”. Đồng Tháp là vùng trũng ngập nước ở phần thượng châu thổ, nguồn tài nguyên thủy sản nước ngọt phong phú, giàu có. Ví dụ 5: Ca dao có câu: “Đường bộ thì sợ Hải Vân Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi” Đèo Hải Vân thuộc dãy núi Bạch Mã, địa hình cao, phức tạp. Giao thông qua đèo Hải Vân, trước khi có đường hầm gặp nhiều khó khăn. Câu ca dao nói lên những khó khăn của địa hình miền núi đến ngành giao thông vận tải nước ta. Ngày nay để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, nước ta đã thiết kế xây dựng hầm đường bộ Hải Vân. * Bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển Ví dụ 1: Ca dao có câu: “Thâm đông, hồng tây, dựng mây Ai ơi ở lại ba ngày hãy đi” Bão thường xuất hiện ở Biển Đông, đổ bộ vào nước ta. Phía đông nơi vị trí của bão, các tầng mây đối lưu dày đặc nên “thâm đông”. Không khí có độ ẩm rất lớn, ánh sáng Mặt trời chiếu qua lớp không khí này bị tán xạ mạnh tạo nên màu hồng ở chân trời phía tây. Dựng mây là gió thổi hướng đông bắc. Điều này dự báo bão sắp đổ bộ vào nước ta, nên đợi sau 3 ngày bão tan thì mới nên đi. Ví dụ 2: Biển Đông nước ta giàu tài nguyên sinh vật, phong phú về giống loài, được nhà thơ Huy Cận viết trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, có đoạn: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi ................................................... Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, ................................................... Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” * Bài 9,10: Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa Ví dụ 1: Tục ngữ có câu: “Mùa đông mưa dầm gió bấc Mùa hè mưa to gió lớn” “Gió bấc” chính là gió mùa Đông Bắc. Từ tháng XI đến tháng IV năm sau, miền Bắc nước ta chịu tác động của khối khí lạnh phương Bắc di chuyển theo hướng đông bắc, nên thường gọi là gió mùa Đông Bắc. Gió này tạo nên một mùa đông lạnh ở miền Bắc. “Mưa dầm” là loại mưa phùn, xảy ra vào nửa sau mùa đông ở vùng ven biển và các đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Mưa phùn làm tăng thêm giá lạnh, rét buốt và tiết trời ẩm thấp, dễ gây nấm mốc, sâu bệnh. Khi di chuyển xuống phía nam, gió mùa Đông Bắc suy yếu dần, bớt lạnh và hầu như bị chặn lại ở dãy Bạch Mã. Từ Đà Nẵng trở vào, Tín Phong bán cầu Bắc cũng thổi theo hướng đông bắc chiếm ưu thế, gây mưa cho vùng ven biển Trung Bộ, trong khi Nam Bộ và Tây Nguyên là mùa khô. Như vậy, câu “mùa đông mưa dầm gió bấc” chỉ đúng với đặc điểm khí hậu miền Bắc, nhưng không đúng với khí hậu miền Nam. Gió mùa mùa hạ (từ tháng V đến tháng X) có hai luồng gió cùng hướng tây nam thổi vào Việt Nam, gây mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên. Hoạt động của gió Tây Nam cùng với dải hội tụ nhiệt đới là nguyên nhân chủ yếu gây mưa vào mùa hạ cho cả hai miền nam, Bắc và mưa vào tháng IX cho Trung Bộ. Do áp thấp Bắc Bộ, khối khí này di chuyển theo hướng đông nam vào Bắc Bộ tạo nên “gió mùa Đông Nam” vào mùa hạ ở miền Bắc nước ta. Ví dụ 2: Tục ngữ có câu: “Tháng Giêng rét đài, tháng Hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân” Tháng giêng và tháng hai âm dương lịch, tương ứng với tháng hai và tháng ba dương lịch. Thời gian này ở miền Bắc thời tiết ấm áp hơn, kết hợp với hiện tượng mưa phùn, độ ẩm không khí cao nên thuận lợi cho cây trồng phát triển, đâm chồi nảy lộc. Rét nàng Bân là cách gọi dân gian của đợt rét cuối cùng của mùa đông thường kèm theo mưa phùn, xảy ra vào tháng ba âm dương lịch (tháng tư dương lịch) ở miền Bắc Việt Nam. Ví dụ 3: Dải hội tụ nhiệt đới gây mưa vào tháng IX cho Trung Bộ nước ta, giáo viên có thể mô tả lượng mưa lớn qua hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Nỗi lòng chi rứa Huế ơi! Mà mưa xối xả, trắng trời Thừa Thiên” Ví dụ 4: Hiện tượng mưa xuân được nhắc đến trong câu thơ: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” (Mưa xuân, Nguyễn Bính) Câu thơ của Nguyễn Bính nhắc đến kiểu thời tiết chỉ có ở miền Bắc (vùng ven biển và ở đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ). Vào cuối đông, đầu xuân trung tâm cao áp Xibia dịch chuyển ra phía biển, nên gió mùa Đông Bắc đi qua biển, khi đi vào nước ta mang nhiều hơi ẩm nên đã tạo ra kiểu thời tiết lạnh ẩm, mưa phùn ở vùng ở vùng ven biển và đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Đây cũng là thời kì nở rộ của hoa xoan, một loại cây thân gỗ ở miền Bắc. Ví dụ 5: Tục ngữ có câu: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy Cơn đàng Tây vừa cày vừa ăn” Mùa hè, nhất là vào tháng 7 ở đồng bằng và ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao, hình thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ biển vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của khí áp thấp gây nên mưa bão. Vì vậy “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy” Do ảnh hưởng của địa hình dãy Hoàng Liên Sơn, dãy Trường Sơn nên khi có gió Tây Nam (gió Tây) gây mưa cho Nam Bộ và Tây Nguyên. Ở vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Ví dụ 6: Ca dao có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Ở Bắc Bộ, vào đầu mùa hạ thường xảy ra hiện tượng mưa giông do sự tranh chấp của các khối khí. Sấm thường được hình thành vào mùa hè. Trong quá trình phát ra tia lửa điện nung nóng không khí, ni tơ tự do trong không khí tổng hợp tạo ra muối ni tơ, theo nước mưa giông rơi xuống, cung cấp một nguồn đạm tự nhiên từ khí trời khá lớn cho cây trồng thêm tốt tươi. Lúa chiêm ở miền Bắc từ tháng 2 – tháng 6 là thời kì đẻ nhánh và làm đòng, gặp mưa giông đầu mùa thì lúa sẽ phát triển mạnh hơn, mùa màng bội thu. * Bài 11,12: Thiên nhiên phân hóa đa dạng Ví dụ 1: Thiên nhiên phân hóa Bắc – Nam nước ta, được thể hiện qua trích đoạn: “Anh ở trong này chưa thấy mùa đông ... Muốn gửi ra em một chút nắng vàng Thương cái rét của thợ cày, thợ cấy...” (Trích: “Gửi nắng cho em” – Bùi Văn Dung) Miền Nam nắng nóng quanh năm, còn miền Bắc có một mùa đông lạnh. Điều này là do: miền Bắc vào mùa đông chịu ảnh mạnh của gió mùa Đông Bắc lạnh, càng di chuyển vào phía nam gió càng giảm sút cường độ (do ma sát bề mặt đệm, bức chắn địa hình,...nên đến Huế chỉ còn se lạnh và gặp bức chắn dãy Bạch Mã gió mùa Đông Bắc bị biến đổi tính chất, đồng thời kết hợp với sự tăng lượng bức xạ Mặt trời từ Bắc vào Nam. Ví dụ 2: Phân hóa thiên nhiên theo chiều Đông – Tây của Đông và Tây dãy Trường Sơn: “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Bên nắng đốt, bên mưa quây”. (“Sợi nhớ, sợi thương” – Thúy Bắc) Hiện tượng “nắng đốt” xảy ra ở sườn phía đông của dãy Trường Sơn, hiện tượng “mưa quây” xảy ra ở sườn phía tây của dãy Trường Sơn trong thời gian đầu mùa hạ với sự hoạt động của gió mùa Tây Nam. Nguyên nhân: Vào đầu mùa hạ ở nước ta, khối khí nhiệt dới ẩm từ Bắc Ấn Độ Dương di chuyển theo hướng tây nam vào nước ta, gặp “bức chắn” địa hình là dãy Trường Sơn. Theo qui luật đai cao, cứ lên cao 1000m nhiệt độ không khí giảm 60C nên khối không khí khi lên đến độ cao nhất định ngưng kết và gây mưa cho sườn tây, khối không khí mất hơi ẩm tiếp tục được đẩy lên cao vượt qua dãy Trường sơn tạo ra hiện tượng gió “phơn” khô nóng cho sườn đồn Trường Sơn (đồng bằng ven biển Trung Bộ và phần nam của khu vực Tây Bắc). Đoạn thơ trong bài “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” (Phạm Tiết Duật) cũng có ý nghĩa tương tự: “Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác ........................................................... Trường Sơn Tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo ........................................................... Em thương anh bên tây mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá ......................................................... Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.” Ví dụ 3: Giải thích hình thái thời tiết tại địa điểm đèo Hải Vân (nằm trên dãy Bạch Mã) trong hai câu thơ sau của Tản Đà: “Hải Vân đèo lớn vượt qua Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè.” Vào cuối mùa đông, đèo Hải Vân nằm trên dãy Bạch Mã là ranh giới tự nhiên giữa hai miền Bắc – Nam. Vào thời gian này, phía Bắc đèo Hải Vân đang chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc cuối mùa, thổi từ biển vào mang theo hơi ẩm gây mưa phùn (mưa xuân). Phía nam đèo Hải Vân ảnh hưởng rất yếu của gió này. Từ Đà Nẵng trở vào Nam thời tiết nắng nóng. * Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên Ví dụ : - Ca dao có câu: “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” - Tục ngữ lại có câu: “Tấc đất tấc vàng” Tấc là đơn vị diện tích nhỏ nhất. Vàng là kim loại quí, dùng cân tiểu li để cân đong. Đất quí ngang vàng. Đất quí như vàng vì đất có vai trò quan trọng đối với con người. Câu tục ngữ này đề cao giá trị của đất, phê phán việc lãng phí đất. - Bài thơ “Lời cầu nguyện của rừng” nói về vai trò quan trọng của tài nguyên rừng đối với thiên nhiên và con người. Từ đó thôi thúc con người chúng ta hãy bảo vệ tài nguyên rừng: “........................................................... Hồn Tổ quốc ngự giữa rừng sâu thẳm Rừng điêu tàn là Tổ quốc suy vong!” * Bài 15: Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai Ví dụ 1: Tục ngữ có câu: “Chiêm khê, mùa thối”. Câu tục ngữ này phản ánh thiên tai ngập lụt và hạn hán. Những vùng đất không chủ động được tưới tiêu. Vụ chiêm (vào mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị khô cháy. Vụ mùa (mùa mưa) hệ thống tưới tiêu kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm thối trong nước lũ. Ví dụ 2: Hậu quả của bão qua bài thơ “Thương về miền lũ” – Nguyên Thạch, có đoạn: “Tôi đã thấy những bàn tay gầy yếu của em thơ và của những cụ già ngón run run vạch mái lá thò ra xin trợ giúp những phần quà mì gói,...” Ví dụ 3: Tục ngữ có câu: “Ráng mỡ gà ai có nhà thì giữ” Ráng mỡ gà là những đám mây màu hồng giống như mỡ gà, khi đám mây này xuất hiện trên đỉnh đầu thì có bão. Ví dụ 4: Nhân dân có câu: “Gió bấc heo may, chuồn chuồn bay thì bão” Gió bấc tức là gió bắc. Ở miền Bắc nước ta vào mùa hè gió chuyển hướng tây rồi bắc là dấu hiệu báo bão tới vì nước ta nằm ở bắc đường đi của bão. Đồng thời với gió chuyển hướng tây, tây bắc nếu thấy chuồn chuồn bay ra nhiều do độ ẩm tăng lên đều là dấu hiệu có bão. 4. Kiểm nghiệm: Để kiểm nghiệm tính thực tế và hiệu quả của việc “Vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam Lớp 12” tôi đã xây dựng phiếu điều tra đối với 03 giáo viên bộ môn Địa lí đang giảng dạy tại trường và đối với hai lớp 12A9 (lớp ban khoa học xã hội, sĩ số học sinh: 41) và 12A3 (lớp ban khoa học tự nhiên, sĩ số học sinh: 45) của trường THPT Lương Đắc Bằng. 4.1. Đối với giáo viên: Câu 1: Trong dạy học Địa lí tự nhiên Việt Nam tại trường THPT Lương Đắc Bằng thầy (cô) có sử dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca mà nội dung liên quan đến bài học không? a. Không sử dụng. b. Có sử dụng, nhưng chỉ thỉnh thoảng. c. Sử dụng thường xuyên. Kết quả: a. 33,33 % ; b. 66,67 % ; c. 0 %. Câu 2: Khi sử dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca có liên quan vào bài dạy môn Địa lí, Thầy (cô) cho biết học sinh có thái độ như thế nào? a. Phần lớn các em đều hứng thú hơn với bài học b. Chỉ một số ít học sinh hứng thú hơn với bài học c. Tất cả các em không hưởng ứng. Kết quả: a. 33,33 % ; b. 66,67 % ; c. 0 %. Câu 3: Khi vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca có liên quan lồng ghép vào bài dạy Địa lí, thầy (cô) thấy hiệu quả hơn trong việc tiếp thu kiến thức của các em không? a. Không hiệu quả b. Chỉ hiệu quả với một số ít em c. Hiệu quả với đa phần học sinh Kết quả: a. 0 % ; b. 66,67 % ; c. 33,3 %. Câu 4: Khi vận dụng ca dao, tục ngữ và thơ ca có liên quan đến bài học Địa lí thầy (cô) dùng vào lúc nào của tiết học? a. Mở bài b. Dạy bài mới (tư liệu để minh họa, nguồn tri thức...) c. Củng cố, tổng kết. d. Kiểm tra e. Tất cả phương án trên Kết quả: a. 0 % ; b. 0 % ; c. 0 %; d. 0 % ; e. 100 %. Câu 5: Việc vận dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca phục vụ dạy học Địa lí cần trên quan điểm “gạn đục, khơi trong” (giữ lấy phần đúng và loại bỏ hay ch
Tài liệu đính kèm:
- skkn_van_dung_ca_dao_tuc_ngu_va_tho_ca_trong_day_hoc_dia_li.doc