Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học Địa lí Lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học Địa lí Lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.

1.Khái niệm Tự học:

- Tự học, nghĩa là người học phải tự mình làm việc với các tri thức cần học. Làm việc ở đây được hiểu cả về phương diện trí óc đơn thuần ( phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa) cả về phương diện hoạt động vật chất ( vẽ biểu đồ, trao đổi, tranh luận, thuyết trình)

- Tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn của thầy nhưng cũng có thể không có sự hướng dẫn của thầy, có thể tiến hành theo hình thức cá nhân, nhưng cũng có thể theo hình thức nhóm. Dù có hay không có thầy , dù theo hình thức nào thì tự học cũng đòi hỏi người học phải nỗ lực tối đa, tích cực , chủ động và sáng tạo.

2. Các hình thức tự học:

- Tự học trên lớp:

+ Nghe giảng

+ Ghi chép

+ Làm bài tập

- Tự học ngoài lớp:

+ Đọc sách , tài liệu tham khảo

+ Làm đề cương thảo luận nhóm

+ Thực hiện các bài tập thực hành

+ Làm đề cương ôn tập

3. Tác dụng của hướng dẫn học sinh tự học trong quá trình dạy học địa lí:

- Hiện nay vấn đề hướng dẫn học sinh tự học là một công việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên. Giáo viên cần phải là người tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh. Trong đó, hướng dẫn học sinh tự học là một yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

- Học tập sao cho tốn ít thời gian, sức lực mà đạt kết quả cao nhất vẫn là nỗi băn khoăn của những học sinh khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Do đồng thời các em phải học nhiều môn học trong khi thời gian hạn chế cả trên lớp và ở nhà. Vì vậy, việc tìm ra phương pháp học tập sao cho có hiệu quả là yêu cầu quan trọng để nâng cao kết quả học tập của các em. Cũng chính vì vậy, hướng dẫn học sinh các phương pháp học tập sao cho hiệu quả cần được đặc biệt chú trọng.

- Môn Địa lí với đặc thù riêng của nó, vừa mang tính chất tự nhiên vừa mang tính xã hội nên các em học sinh muốn học tốt, đạt kết quả cao cũng không hề đơn giản. Hiện nay đa số các em học sinh nghĩ địa lí là môn học thuộc lòng và khá chủ quan với môn học này. Vì vậy mà đa số các em dùng rất ít thời gian cho môn học dẫn tới học tập chưa hiệu quả, thường chỉ là học vẹt, chưa có khả năng tư duy và vận dụng kiến thức địa lí. Đặc biệt là số lượng học sinh học giỏi và đạt điểm cao còn hạn chế.

 

doc 29 trang cuonglanz2a 6381
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học Địa lí Lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Số TT
Nội dung
Trang
1
Phần I: Lí do chọn đề tài
2
2
Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu
3
3
I. Cơ sở lí luận.
3
4
II. Thực trạng của vấn đề.
5
5
III. Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học cơ bản
6
6
IV. Tổ chức thực hiện trong tiết dạy
17
7
Phần III. Kết luận và kiến nghị
27
8
Tài liệu tham khảo
29
PHẦN I : LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Xuất phát từ yêu cầu dạy học hiện nay – dạy học theo hướng đổi mới, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
- Xuất phát từ thực tế dạy học Địa lý cấp THPT từ năm học 2002 đến nay tôi nhận thấy đa số học sinh còn phụ thuộc nhiều vào giáo viên khi học, khả năng tự học, tự nghiên cứu còn hạn chế, đặc biệt với môn địa lí, bộ môn mà học sinh còn chưa thuần thục về các kĩ năng địa lí cơ bản Do đó kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, định kì hoặc kết quả thi tốt nghiệp thường chưa cao. 
- Tự học là công việc suốt đời của bất kì ai, đặc biệt trong xã hội học tập hiện nay. Muốn tự học có kết quả, người học phải có một số cơ sở kiến thức và kĩ năng cần thiết. Một phần trong đó do nhà trường trang bị, một phần quan trọng hơn là sự học hỏi và rèn luyện thường xuyên của người học.
- Để giúp học sinh rèn luyện thành thạo kỹ năng địa lí cơ bản phục vụ cho việc tự học cũng như góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả học tập bộ môn Địa lý bậc THPT đặc biệt là việc học tập bộ môn Địa lí lớp 12 vì vậy tôi chọn đề tài :  “ Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học địa lí lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí ” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.Khái niệm Tự học:
- Tự học, nghĩa là người học phải tự mình làm việc với các tri thức cần học. Làm việc ở đây được hiểu cả về phương diện trí óc đơn thuần ( phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa) cả về phương diện hoạt động vật chất ( vẽ biểu đồ, trao đổi, tranh luận, thuyết trình)
- Tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn của thầy nhưng cũng có thể không có sự hướng dẫn của thầy, có thể tiến hành theo hình thức cá nhân, nhưng cũng có thể theo hình thức nhóm. Dù có hay không có thầy , dù theo hình thức nào thì tự học cũng đòi hỏi người học phải nỗ lực tối đa, tích cực , chủ động và sáng tạo.
2. Các hình thức tự học:
- Tự học trên lớp:
+ Nghe giảng
+ Ghi chép
+ Làm bài tập
- Tự học ngoài lớp:
+ Đọc sách , tài liệu tham khảo
+ Làm đề cương thảo luận nhóm
+ Thực hiện các bài tập thực hành
+ Làm đề cương ôn tập
3. Tác dụng của hướng dẫn học sinh tự học trong quá trình dạy học địa lí:
-  Hiện nay vấn đề hướng dẫn học sinh tự học là một công việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên. Giáo viên cần phải là người tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh. Trong đó, hướng dẫn học sinh tự học là một yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
- Học tập sao cho tốn ít thời gian, sức lực mà đạt kết quả cao nhất vẫn là nỗi băn khoăn của những học sinh khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Do đồng thời các em phải học nhiều môn học trong khi thời gian hạn chế cả trên lớp và ở nhà. Vì vậy, việc tìm ra phương pháp học tập sao cho có hiệu quả là yêu cầu quan trọng để nâng cao kết quả học tập của các em. Cũng chính vì vậy, hướng dẫn học sinh các phương pháp học tập sao cho hiệu quả cần được đặc biệt chú trọng.
- Môn Địa lí với đặc thù riêng của nó, vừa mang tính chất tự nhiên vừa mang tính xã hội nên các em học sinh muốn học tốt, đạt kết quả cao cũng không hề đơn giản. Hiện nay đa số các em học sinh nghĩ địa lí là môn học thuộc lòng và khá chủ quan với môn học này. Vì vậy mà đa số các em dùng rất ít thời gian cho môn học dẫn tới học tập chưa hiệu quả, thường chỉ là học vẹt, chưa có khả năng tư duy và vận dụng kiến thức địa lí. Đặc biệt là số lượng học sinh học giỏi và đạt điểm cao còn hạn chế.
- Để học tập môn Địa lí một cách hiệu quả nhất, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý sử dụng những phương pháp học tập quan trọng sau đây:
+ Phương pháp học từ bản đồ
+ Phương pháp học với bản đồ tư duy
+ Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam
+ Phương pháp liên hệ thực tế
+ Phương pháp xử lí bài tập biểu đồ, phân tích bảng số liệu
+ Phương pháp lập sơ đồ , biểu bảng
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi xin mạnh dạn đưa ra 3 phương pháp hướng dẫn học sinh tự học cơ bản nhất đó là : 
+ Phương pháp học từ bản đồ
+ Phương pháp học với bản đồ tư duy
+ Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam
II. THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC TẠI NHÀ TRƯỜNG
1. Hiện trạng dạy và học địa lí lớp 12 :
Với nội dung và thời lượng môn Địa lí lớp 12 thì việc giảng dạy chủ yếu nghiêng về mặt lí thuyết  và giảng dạy theo các phương pháp sau :
+ Nêu vấn đề .
+ Thuyết trình.
+ Trực quan.
+ Thảo luận nhóm
Vấn đề thực hành khai thác số liệu thống kê trong chương trình lớp 12 rất ít. Trong khi kiến thức lí thuyết của các bài học rất dài, giáo viên không còn nhiều thời gian hướng dẫn học sinh trên lớp. Tuy học sinh đã được học ở các lớp dưới nhưng những kỹ năng đó phần nào đã không còn nắm chắc, trong khi đến thời điểm này về phần thực hành kỹ năng đối với học sinh lớp 12 đã phải tương đối hoàn thiện. Để đảm bảo đạt được kết quả cao trong việc học tập bộ môn, các thầy cô giáo cần phải tự bố trí  thời gian nhất định và phù hợp để hướng dẫn học sinh thực hành những kỹ năng cơ bản thường gặp trong các bài kiểm tra một tiết, kiểm tra học kỳ và thậm chí là  thi tốt nghiệp bộ môn. Chính vì những vấn đề trên nên việc hướng dẫn học sinh tự học là nhiệm vụ hết sức cần thiết và quan trọng với giáo viên giảng dạy môn Địa lí nói riêng và giáo viên giảng dạy tại các trường THPT nói chung.
2. Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện
2.1. Thuận lợi:
- Bản thân luôn được Nhà trường tạo điều cho tham gia các lớp tập huấn do Sở GD - ĐT tổ chức để tiếp thu những vấn đề đổi mới, nâng cao trình độ chuyên môn.
- Ban giám hiệu Nhà trường, Tổ chuyên môn tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy và học, thường xuyên dự giờ góp ý, rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy.
- Bản thân giáo viên luôn cố gắng học hỏi đồng nghiệp trong công tác giảng dạy, tiếp thu được cơ bản những yêu cầu của quá trình đổi mới giáo dục nói chung và dạy học Địa lý nói riêng.
- Cơ sở vật chất (máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, bản đồ, ) phục vụ cho công tác giảng dạy môn Địa lí tương đối đầy đủ
2.2 Khó khăn:
a. Về phía giáo viên:
- Bản thân giáo viên đôi khi còn chủ quan trong việc chưa dành nhiều thời gian vào cuối các tiết dạy để rèn thêm kỹ năng cho học sinh, do phân phối thời gian tiết dạy nhiều khi còn chưa hợp lý.
- Điều kiện học tập kinh nghiệm, giao lưu với các trường bạn còn hạn chế.
b. Về phía học sinh:
- Khả năng nhận dạng yêu cầu của đề bài còn yếu.
- Cách thức tính toán, xử lý số liệu, phân chia tỷ lệ trục tung, trục hoành trong khi vẽ biểu đồ của học sinh rất hạn chế.
- Đa số học sinh còn cẩu thả trong khi làm bài, trong cách trình bày khi làm bài thực hành hoặc trong các bài kiểm tra.
- Một bộ phận không nhỏ học sinh còn lười học, không có động cơ học tập đúng đắn dẫn đến khó khăn cho giáo viên khi giảng dạy.
- Khả năng tự học – tự nghiên cứu của học sinh còn hạn chế
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC CƠ BẢN:
1. Phương pháp tư duy từ bản đồ:
Bản đồ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với môn Địa lí. Mỗi một đơn vị kiến thức địa lí đều gắn với một khu vực lãnh thổ nhất định và lãnh thổ đó được thể hiện trên bản đồ. Nếu học địa lí mà không suy nghĩ và liên hệ tới lãnh thổ của nó thì sẽ bị rơi vào thế khó hiểu và lẫn lộn, nhanh quên. Giáo viên cần chú ý hình thành cho các em học sinh thói quen sử dụng bản đồ và hướng dẫn các em cách lựa chọn và sử dụng bản đồ phù hợp với từng bài học. Đồng thời, trong bài giảng cần triệt để sử dụng các loại bản đồ, kết hợp với câu hỏi và bài tập có yêu cầu khai thác bản đồ.	
a. Các loại bản đồ giáo khoa địa lí:
- Bản đồ treo tường chủ yếu sử dụng trên lớp với số đông học sinh
- Bản đồ để bàn chủ yếu dùng cho làm việc cá nhân của học sinh ở lớp, ở nhà
- Bản đồ SGK biểu hiện một số nội dung của bài viết SGK.
- Tập bản đồ
- Bản đồ câm
- Bản đồ khung( bản đồ trống)
b. Một số kĩ năng làm việc với bản đồ: 
- Ghi nhớ địa danh trên bản đồ:
Khi đọc bản đồ, cần nhớ, thuộc địa danh, xác định đúng vị trí của chúng trên bản đồ
+ Để ghi nhớ cần sử dụng phối hợp các giác quan và tư duy ngôn ngữ, phối hợp với các hoạt động theo một trình tự như sau:
Phát âm đúng , ghi tên địa danh đúng
Hình dung các vị trí địa danh( hướng nào, giáp địa danh nào)
Thấy chính xác vị trí các địa danh trên bản đồ
+ Để nhớ và thuộc địa danh , cần tiến hành các bài tập điền địa danh vào bản đồ( hay lược đồ câm)
+ Khi chỉ và đọc một đối tượng trên bản đồ, cần lưu ý đến hình dạng, kích thuớc của đối tượng và vị trí của nó trong mối quan hệ với các đối tượng địa lí ở xung quanh, đặc biệt với đối tượng mà trước đó đã ghi nhớ , nắm vững.
- Tính tỷ lệ bản đồ:
Trên bản đồ , tỉ lệ thường được ghi bằng phân số
VD : 1/ 1000000 hay 1 : 1000000.trong đó tử số là khoảng cách trên bản đồ còn mẫu số chính là khoảng cách ngoài thực tế. Phân số trên có nghĩa là : 1 cm trên bản đồ tương ứng với 1000000cm ngoài thực tế.
- Xác định phương hướng trên bản đồ:
+ Để xác định hướng Bắc trên bản đồ cần dựa vào các đường kinh tuyến.
Trên bề mặt quả địa cầu , cực bắc và Nam là nới hội tụ các đường kinh tuyến. Nếu quy ước phần giữa bản đồ là trung tâm thì đầu trên của kinh tuyến chỉ hướng Bắc, đầu dưới chỉ hướng Nam.
+ Ngoài ra có thể dựa vào mũi tên chỉ hướng Bắc trên tờ bản đồ để xác định hướng Bắc của bản đồ.
- Nhận biết các đặc điểm của địa hình qua đường bình độ.
+ Trị số đường bình độ tăng dần từ ngoài vào trong : vùng đất cao
+ Trị số đường bình độ giảm dần từ ngoài vào trong : vùng trũng
+ Hai đường bình độ đối xứng nhau : địa hình yên ngựa
+ Hệ các đường bình độ có dạng chữ V : sống núi
+ Hệ các đường bình độ có dạng chữ V ngược : thung lũng.
+ Các đường bình độ càng nằm gần nhau thì địa hình có độ dốc lớn. 
- Vẽ bản đồ.
Có nhiều phương pháp vẽ bản đồ, trong đó thông dụng nhất là phuuwong pháp hình học.
Trong chương trình địa lí 12 có bài thực hành yêu cầu vẽ lược đồ Việt Nam. Học sinh phải vẽ được lược đồ tương đối chính xác( đường biên giới, đường bờ biển, một số sông lớn và một số đảo) và xác định được chính xác một số đối tượng địa lí trên lược đồ( điền một số địa danh quan trọng như Hà Nội, Đà Nẵng, TPHCM, vịnh Bắc Bộ)
Như vậy đối với các em học sinh, cần đặc biệt chú ý khai thác các bản đồ trong sách giáo khoa trong khi học bài nhằm nắm chắc kiến thức trong mỗi bài học. Bên cạnh đó, thì chương trình địa lí lớp 12 - Atlat địa lí Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.
Tuy bản đồ có ý nghĩa quan trọng, nhưng nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi các em học sinh học tập gắn với kiến thức bài học, có kiến thức cơ bản về địa lí, biết khai thác và sử dụng. Nếu không, bản đồ chỉ như một bức tranh khó hiểu mà thôi.
2. Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoMột trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD). 
BĐTD hiện là một công cụ đang được sử dụng bởi rất nhiều cá nhân, tổ chức trên toàn thế giới với nhiều lĩnh vực ứng dụng khác nhau. Trong giáo dục, sử dụng BĐTD giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, lập kế hoạch học tập, kế hoạch công tác
BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng phấn, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm. Khai thác tính năng và sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực.
Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinhqua đó, các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với hứng thú học tập lớn. Với các bài tập nhóm, sử dụng BĐTD còn giúp các em biết cách lập kế hoạch, phân công công việc, hợp tác để hoàn thành yêu cầu của giáo viên.
Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhaugóp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 
BĐTD có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với sách giáo khoa. Sách giáo khoa là cơ sở để học sinh tiếp nhận kiến thức, cùng với việc sử dụng và khai thác kiến thức từ thiết bị dạy học giúp học sinh hiểu bài và thể hiện lại sự hiểu biết ấy thông qua BĐTD. Đây còn là một kênh thông tin phản hồi rất thiết thực từ học sinh đối với giáo viên. Giáo viên có thể dựa vào đó để nắm bắt được lượng thông tin mà học sinh tiếp nhận được, từ đó có hướng điều chỉnh đối với cả học sinh và cách dạy của chính mình cho phù hợp. 
* Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ 
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánhđể trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tuỳ vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. 
* Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì cắm cúi ghi chép thì chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hoá chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chépsự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn.
Ví dụ: Khi học về các vùng kinh tế của nước ta (Địa 12), để xác định các vùng kinh tế của nước ta, phạm vi và các trung tâm kinh tế lớn của vùng là phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải, hết vùng này đến vùng khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về vị trí, thế mạnh của các vùng kinh tế. Việc thể hiện tất cả các vùng kinh tế trên BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể về sự phân chia các vùng kinh tế của nước ta, học sinh nhìn vào bản đồ sẽ nhận biết được ngay từng vùng kinh tế và có thể ghi nhớ một cách dễ dàng không máy móc. Sử dụng BĐTD để thể hiện phần nội dung này là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng. 
* Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức 
* Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà 
Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh) trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở nên giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu, đặc biệt là từ mạng Internet bằng cách cung cấp cho học sinh một số trang web thông dụng và chuẩn xác.
Như vậy có thể thấy kiến thức địa lí có hệ thống và có mối quan hệ lôgic rất chặt chẽ. Có nhiều nội dung có thể vẽ sơ đồ tư duy nhằm thể hiện được nội dung bài học một cách đơn giản hóa, dễ nhớ và thấy rõ được mối liên hệ giữa các đối tượng. Ví dụ sơ đồ nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng ngành, Đặc biệt có thể dùng nhiều trong chương trình địa lí lớp 12. Sau mỗi bài học, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vẽ ngay sơ đồ tư duy đơn giản về kiến thức bài học. Qua đó, học sinh có thể khắc sâu nhanh nội dung bài học và thấy được mối liên hệ của các nội dung trong bài cũng như có thể thấy mối liên hệ với nội dung các bài học trước.
3. Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam
a. Đặc điểm Atlat Địa lí Việt Nam:
Atlat Địa lí Việt Nam có nhiều trang bản đồ , được sắp xếp một cách có hệ thống. Như vậy cách học với Atlat Địa lí Việt Nam được bắt đầu với từng trang bản đồ, sau đó kết hợp nhiều trang bản đồ với nhau. Trên mỗi trang bản đồ hoặc kết hợp nhiều trang, có thể khai thác một chủ điểm hoặc khai thác nhiều chủ điểm\
b. Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam:
b.1. Kết hợp kiến thức đã có với kiến thức khai thác trong Atlat Địa lí Việt Nam:
Thông thường các câu hỏi gắn với Atlat , yêu cầu thí sinh phải kết hợp kiến thức đã học với kiến thức trong Atlat để trả lời.Với những câu hỏi này, nếu chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên ( hoặc là riêng Atlat hoặc là riêng kiến thức đã học) sẽ không trình bày kiến thức đúng với yêu cầu. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học thì nhiêu kiến thức từ Atlat sẽ bị bỏ sot, đặc biệt là các kiến thức về mặt phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật hiện tượng địa líNhững nêu chỉ dựa vào Atlat thì nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân phát triển không được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí.
Ví dụ : Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích đặc điểm của đất miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
- Những kiến thức có thể khai thác được từ Atlat một cách rất rõ ràng :
+ Nhiều loại đất khác nhau
+ Đất feralit nâu đỏ trên đá bazan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên
+ Đất feralit trên các loại đá khác : chiếm diện tích lơn và phân bố rộng rãi ở nhiều nơi
+ Ở vùng núi, độ cao từ trên 500 – 600m đến 1600 – 1700m có đất vàng đỏ trên núi, độ cao trên 1600 – 1700m có đất mùn alit núi cao với diện tích không lớn.
+ Đất xám bạc màu trên đá axit tập trung ở Tây

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_huong_dan_hoc_sinh_tu_hoc.doc
  • docBIA SANG KIEN KINH NGHIEM - HANG DIA.doc
  • docPhu luc kem theo CV 518.doc