SKKN Vai trò của tình huống truyện với việc khai thác truyện ngắn trong giờ giảng văn ở trường THPT

SKKN Vai trò của tình huống truyện với việc khai thác truyện ngắn trong giờ giảng văn ở trường THPT

Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định 16/2006-BGD&ĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.[1]

 Thực hiện mục tiêu này, đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh ở tất cả các môn học trong nhà trường THPT. Đổi mới phương pháp dạy học văn cũng không nằm ngoài mục tiêu ấy.

 Đổi mới phương pháp dạy – học văn bao gốm nhiều vấn đề, trong đó vấn đề quan trọng là: người dạy văn trước khi sử dụng các phương pháp, kĩ thuật vào giờ giảng, thì đầu tiên anh phải xác định đúng thi pháp thể loại của tác phẩm thì mới khai thác hết được cái hay, cái đẹp của văn chương.

 Tác phẩm truyện ngắn chiếm một số lượng khá lớn trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông. Điều này phản ánh đúng tương quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của

chúng ta.

 Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày 30/11/1991), Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Nhà văn Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn hóa, năm 1999, tr.43).

 Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng quan niệm truyện ngắn phải “tạo ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn hóa, năm 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên cứu đến người sáng tác đều thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự thành công của một truyện ngắn. Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện chưa được sự quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ tác phẩm truyện ngắn của người học chưa được sâu sắc.

 Theo tôi, ngoài việc tiếp cận tác phẩm truyện ngắn qua phân tích nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ., chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống của truyện để làm nổi bật được giá trị của tác phẩm. Một số tác phẩm truyện ngắn nên tiếp cận từ hướng này: Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi), Đôi mắt (Nam Cao), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái Quốc), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Hai đứa trẻ (Thạch Lam).

 

doc 17 trang thuychi01 10412
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vai trò của tình huống truyện với việc khai thác truyện ngắn trong giờ giảng văn ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
 Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định 16/2006-BGD&ĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.[1]
 Thực hiện mục tiêu này, đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh ở tất cả các môn học trong nhà trường THPT. Đổi mới phương pháp dạy học văn cũng không nằm ngoài mục tiêu ấy.
 Đổi mới phương pháp dạy – học văn bao gốm nhiều vấn đề, trong đó vấn đề quan trọng là: người dạy văn trước khi sử dụng các phương pháp, kĩ thuật vào giờ giảng, thì đầu tiên anh phải xác định đúng thi pháp thể loại của tác phẩm thì mới khai thác hết được cái hay, cái đẹp của văn chương.
 Tác phẩm truyện ngắn chiếm một số lượng khá lớn trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông. Điều này phản ánh đúng tương quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của 
chúng ta.
 Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày 30/11/1991), Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Nhà văn Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn hóa, năm 1999, tr.43).
 Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng quan niệm truyện ngắn phải “tạo ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn hóa, năm 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên cứu đến người sáng tác đều thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự thành công của một truyện ngắn. Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện chưa được sự quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ tác phẩm truyện ngắn của người học chưa được sâu sắc.
 Theo tôi, ngoài việc tiếp cận tác phẩm truyện ngắn qua phân tích nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ..., chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống của truyện để làm nổi bật được giá trị của tác phẩm. Một số tác phẩm truyện ngắn nên tiếp cận từ hướng này: Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi), Đôi mắt (Nam Cao), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái Quốc), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Hai đứa trẻ (Thạch Lam)...
1Trong trang này: Mục [1] được trích dẫn trong TLTK[1]
 Vì vậy, sáng kiến kinh nghiệm của tôi sẽ mang tên: “Vai trò của tình huống truyện với việc khai thác truyện ngắn trong giờ giảng văn ở trường THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu.
 Tôi chọn đề tài này vừa để trao đổi kinh nghiệm, vừa để có điều kiện nghiên cứu kĩ lưỡng, sâu sắc hơn về phương pháp dạy học tác phẩm văn xuôi từ góc nhìn tình huống truyện. Đồng thời qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm, sẽ phát huy được sự sáng tạo của học sinh, tạo thêm hứng thú, niềm say mê cho các em khi học tác phẩm văn xuôi trong chương trình ngữ văn THPT.
3. Đối tượng nghiên cứu.
 Trong phạm vi đề tài nhỏ này, tôi chỉ tập trung vào một số vấn đề lí luận cơ bản về truyện ngắn , về tình huống truyện vào một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu. 
 Dựa trên cơ sở đọc, tìm hiểu các tài liệu tin cậy, thực dạy, kiểm tra đánh giá học sinh và dự giờ đồng nghiệp.
 B. NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận sáng kiến.
1.1. Khái niệm truyện ngắn:
Nhận diện thể loại truyện ngắn cũng như sáng tạo về thể loại truyện ngắn là một nỗ lực liên tục cho cả người sáng tác và giới nghiên cứu phê bình. Từ W. Gớt thế kỷ XVII cho đến Sêkhốp, từ Lỗ Tấn đến Môpatxăng, từ Antônốp thế kỷ XIX - XX, đến Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên họ đã đưa ra những cách phân biệt khác nhau. Các khái niệm thường xoáy vào bình diện chính: dung lượng, cốt truyện, nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ để khái quát thành đặc trưng. Người cho truyện ngắn là một “khoảnh khắc”, một “trường hợp”, người nhấn mạnh vào nhân vật, vào tính súc tích của chi tiết, cô đúc của ngôn từ Ở phần chủ yếu, chúng ta có thể hình dung: truyện ngắn là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ chốt nào đó.
1.2. Khái niệm và vai trò của tình huống truyện.
 Theo Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) trong tác phẩm nổi tiếng Mỹ học đã dành nhiều trang viết về tình huống: “Nói chung tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật”.
 Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một nửaNhững nhà văn có tài đều là những người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” và “những người cầm bút có cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sốngnhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại” (Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, H. 1994, tr. 258)
 Như vậy, tình huống còn được gọi là tình thế và các nhà văn Việt Nam quen dùng tình thế hơn là tình huống. Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần nói về bản chất và vai trò của tình huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện ngắn chỉ tập trung vào một tình thế nảy sinh trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có đến 
hơn một tình thế thì truyện ngắn đó lập tức bị phá vỡ”. (Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, NXB Thanh niên, H. 2000, tr. 44).
 Nhà văn Nguyên Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình huống: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt [] Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện
bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày”. (Bùi Việt Thắng,
2Trong trang này: Mục 1.1; 1.2 được tham khảo trong TLTK[5]
Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB ĐHQGHN, H. 2000, tr. 114).
 Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
1.3. Phân loại tình huống.
 Hiện nay, còn nhiều cách phân loại tình huống khác nhau: Cơ bản có 3 cách phân loại như sau:
- Cách thứ nhất: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống kịch; Tình huống tâm trạng; Tình huống tượng trưng.
-Cách thứ hai: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống thắt nút; Tình huống tương phản; Tình huống luận đề.
-Cách thứ ba: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống hành động; Tình huống tâm trạng; Tình huống nhận thức.
 Trong ba cách phân loại trên, thì cách phân loại thứ 3 có lẽ dễ tiếp nhận, phù hợp với giáo viên và học sinh THPT. Theo cách phân loại này, thì ba loại tình huống nêu trên tạm thời được TS Chu Văn Sơn phân biệt như sau:
- Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn giàu kịch tính.
- Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là: con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác, 
cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác (như ngoại hình, hành động, lí tính) ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn trữ tình.
- Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là: nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản
để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm, Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng
được nhân vật hoá vậy. Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận.
3Trong trang này: Mục 1.3 được tham khảo trong TLTK[5]
 Sự phân loại như trên là tương đối. Trong thực tế, các dạng ấy đều ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn toàn"thuần chủng" như mô tả. Việc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó.
1.4. Phương pháp tiếp cận tình huống.
 Theo TS. Chu Văn Sơn, quy trình tiếp cận tình huống gồm các bước sau:
1.4.1. Xác định tình huống truyện 
-Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này? Hay sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?...
-Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một trong các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả?
-Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.
1.4.2. Phân tích tình huống:  Cần phân tích trên các bình diện cơ bản sau:
- Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)
- Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
- Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
1.4.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống: Thông điệp thẩm mĩ mà tình huống chứa đựng
-Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?
-Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì? 
 Khi giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn, sau phần Giới thiệu chung (giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả; giới thiệu về hoàn cảnh 
ra đời tác phẩm), trong phần Đọc – hiểu văn bản, tôi thường hướng dẫn học tìm hiểu về tình huống truyện. Xuất phát từ tình huống truyện, tôi khai thác tác phẩm về các khía cạnh: nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật, Từ đó, tôi hướng dẫn học sinh rút ra được chủ đề tác phẩm.
 2. Thực trạng.
 Theo khảo sát thực trạng thực dạy và học tác phẩm văn xuôi ở trường chúng tôi, thì tôi nhận thấy:
- Đa số học sinh khi học đến văn xuôi đều có tâm lí ngại học.
- Các em rất lười đọc văn bản vì văn bản dài, khó nhớ.
-Một số giáo viên khi dạy văn xuôi không xuất phát từ thi pháp thể loại, tức là không khai thác tác phẩm từ góc độ tình huống truyện.
 Xuất phát từ thực trạng đó, kết hợp việc đọc và nghiên cứu một số tài liệu về truyện ngắn và vai trò của tình huống trong truyện ngắn, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm này.
4Trong trang này: Mục 1.4 được tham khảo trong TLTK[5]
 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
 Trên cơ sở lí luận của vấn đề đã trình bày ở trên, tôi đưa ra một số ví dụ minh họa cụ thể như sau:
Ví dụ 1. Tình huống truyện trong "Chữ người tử tù"
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề
- Nguyễn Tuân (1910-1987) là "người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp" và cũng là cây bút rất mực tài hoa, uyên bác. Nhà văn thường quan sát, miêu tả thế giới ở phương diện thẩm mĩ và đánh giá con người dưới góc độ tài hoa, nghệ sĩ.
- Chữ người tử tù là truyện ngắn trích trong tập Vang bóng một thời (1940) là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước Cách mạng, tác phẩm được đánh giá là "gần đạt đến sự hoàn mĩ". Góp phần vào thành công nghệ thuật của tác phẩm, không thể không nói đến nghệ thuật tạo tình huống độc đáo.
b. Tình huống độc đáo của truyện ngắn Chữ người tử tù 
+ Đó là cuộc gặp gỡ kì lạ đầy éo le, trớ trêu giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Nói là cuộc gặp gỡ éo le và trớ trêu là bởi xét trên bình diện xã hội, Huấn Cao và quản ngục là những kẻ đối địch nhau, là kẻ thù của nhau. Một người đấu tranh để lật đổ cái trật tự xã hội hiện hành, một kẻ là đại diện cho cái trật tự mà người kia đang muốn đánh đổ. Nhưng trên phương diện tài hoa, nhân cách, họ lại là những người bạn tri âm, tri kỉ. Một người là nghệ sĩ, sáng tạo cái đẹp, một người biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Một người khí phách hiên ngang, cứng cỏi, một người ngưỡng mộ khí phách.
+ Đó là một cuộc gặp gỡ kì lạ: không gian diễn ra cuộc gặp gỡ là nhà ngục, là 
phòng giam ẩm thấp bẩn thỉu nơi vốn chỉ gợi nhắc đến sự tăm tối, bạo hành và tội ác. Thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ cũng rất ấn tượng: đó là những ngày cuối cùng của người tử tù trước khi bị giải về kinh chịu án chém.
* Vai trò của tình huống truyện:
+ Thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm: khẳng định sự bất tử của cái đẹp, sự tất thắng của cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc đối đầu với những gì xấu xa, tăm tối, độc ác. Thông điệp nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua tình huống truyện là thông điệp về sức mạnh cảm hóa kì diệu của nghệ thuật, của cái đẹp "Cái đẹp cứu rỗi nhân loại"
+ Bộc lộ tính cách nhân vật:Thông qua tình huống truyện, nhân vật Huấn Cao có cơ hội bộc lộ rõ những phẩm chất cao đẹp: vừa hiên ngang, dũng liệt vừa tài hoa nghệ sĩ lại giữ được cái tâm trong sáng. Còn quản ngục, qua tình huống éo le ấy, cũng thể hiện mình là một người có khí phách, biết "biệt nhỡn liên tài", trân trọng tài năng và khí phách của người anh hùng đồng thời là người vẫn giữ được thiên lương trong sáng.
5Trong trang này: Ví dụ 1 được tham khảo trong TLTK[9]
+ Thúc đẩy cốt truyện phát triển (tạo không khí căng thẳng, lôi cuốn): Từ tình huống truyện, cốt truyện được triển khai, phát triển và lên đến cao trào trong cảnh cho chữ cuối tác phẩm. Chính tình huống độc đáo đã tạo cho câu chuyện sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc ngay từ đầu tác phẩm.
+ Thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: một người nghệ sĩ tài hoa, đầy cá tính, luôn tìm tòi, khám phá cái đẹp, cái đẹp độc đáo, phi thường nhưng vẫn mang giá trị nhân văn sâu sắc.
- Đánh giá chung: Tình huống truyện là một thành công nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm, góp phần tạo nên giá trị, sức hấp dẫn của tác phẩm đồng thời thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả Nguyễn Tuân.
Ví dụ 2. Tình huống truyện trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam: 
– Truyện Hai đứa trẻ là truyện cốt truyện rất mờ nhạt, thay vào đó là dòng nội tâm, thế giới tâm hồn của nhân vật.Vì vậy hành động nhân vật, sự kiện trong tác phẩm không nhiều. Cũng chính vì vậy mà chi tiết, sự kiện được nhà văn xây dựng trong tác phẩm là hết sức chọn lọc và giàu ý nghĩa.
– Sự kiện được tái hiện đậm nét, chiếm dung lượng nhiều nhất trong tác phẩm chính là cuộc đợi tàu của hai đứa trẻ trên phố huyện nghèo. Nó gắn với  nội tâm, tình cảm của nhân vật. Đây có thể coi là tình huống chủ chốt của tác phẩm bởi vì đó là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.
a. Hoàn cảnh của tình huống (diện mạo của tình huống):
+ Thạch Lam đưa người đọc về không gian phố huyện nghèo, buồn tẻ, chiều tàn, ngày tàn, phiên chợ tàn, đồ vật tàn và những kiếp người tànđêm tối âm u, vây phủ nhịp sống đơn điệu, quẩn quanh buồn tẻ, lặp đi lặp lại.
+ Giữa không gian ấy, hai đứa trẻ (An và Liên) là 2 đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, giàu mơ ước, thèm được chơi, thèm được ăn những thức quà ngon lạ, thèm một không gian mới lạ và sôi động, rực rõ. Nhưng chúng không được thoả nguyện bao giờ, vì gia cảnh khó khăn, chúng phải lao động kiếm sống, trông hàng giúp mẹ. Đáng thương nhất là chúng luôn nhớ về quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc (đối lập với hiện tại nghèo nàn, buồn tẻ), và chúng chỉ có thể ngồi yên trong bóng tối để mơ ước và nghĩ về quá khứ ngày một xa xôi ấy mà thôi.
b.Tính chất của tình huống:
–  Cuộc đợi tàu lạ lùng : Lạ vì chúng đợi tàu chẳng phải vì một mục đích nào thiết thực (không bán hàng, không đón ai, không có người thân nào của chúng trên đoàn tàu ấy) chúng đợi tàu chỉ để nhìn đoàn tàu. Lạ vì không thiết thực mà ngày nào chúng cũng cố đợi.Chừng như chưa được nhìn đoàn tàu thì chúng chưa được sống trọn vẹn một ngày.
– Cuộc đợi tàu đầy tâm trạng
+ Đợi tàu là sống lại kỷ niệm: chuyến tàu ở Hà Nội về, gặp được chuyến tàu là hai đứa trẻ được sống lại quá khứ. Một quá khứ có thực mà Liên từng được sống một tuổi thơ vui tươi sung sướng. Khi đoàn tàu đi vụt qua, “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.”
6Trong trang này: Ví dụ 2 được tham khảo trong TLTK[9]
+ Đợi tàu là mơ ước một thế giới khác với thực tại: Đoàn tàu đi đến đâu, mang theo ánh sáng và âm thanh, lấp lánh và rầm rộ; âm thanh khỏe khoắn sôi động, ánh sáng rực rõ, mạnh mẽ. Nó là biểu tượng đầy sức sống, đối lập hoàn toàn với phố huyện đầy bóng tối, buồn tẻ như đang mòn mỏi, chết dần.Đợi tàu là niềm niềm khao khát sống, khao khát đổi đời.
– Cuộc đợi tàu đáng thương: Hai đứa trẻ có tuổi thơ ngắn ngủi, sớm phải nếm trải thiếu thốn, lam lũ, nhọc nhằn. Đoàn tàu trở thành niềm vui duy nhất của chúng. Chúng chưa kịp vui thì đoàn tàu đã mất hút vào bóng tối, mang theo luôn vào bóng tối những mơ tưởng của Liên. Đến từ Hà nội, đến từ một tuổi thơ đã mất, đoàn tàu là một tia hồi quang cho lũ trẻ được nhìn lại tuổi thơ tươi vui trong chốc lát. Đoàn tàu chỉ giúp chúng thoả mãn thị giác rồi chúng lại bị ném vào thực tại không gian phố huyện tù đọng với ngọn đèn nhỏ leo lét. Ngọn đèn nhỏ bé chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên.
c. Ý nghĩa của tình huống:
– Thông điệp giàu đầy tính nhân văn mà nhà văn muốn gửi gắm: Phải thay đổi hoàn cảnh để cứu lấy con người. Hãy cho những đứa trẻ một cuộc sống khác xứng đáng với con người hơn, một cuộc sống mà con người có quyền sống trong hi vọng, chứ không phải đang tàn đi trong vô vọng.
Ví dụ 3. Tình huống trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao:
 -  Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lạ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_vai_tro_cua_tinh_huong_truyen_voi_viec_khai_thac_truyen.doc