SKKN Một số giải pháp giáo dục hỗ trợ học sinh có biểu hiện “trầm cảm” ở lớp 10A Trường THPT Ngọc Lặc

SKKN Một số giải pháp giáo dục hỗ trợ học sinh có biểu hiện “trầm cảm” ở lớp 10A Trường THPT Ngọc Lặc

Trong thế giới này cái quý nhất là con người, trong con người cái quý nhất là trí tuệ, mà trí tuệ chỉ có được nhờ con đường học vấn và trải nghiệm trong đời sống xã hội. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy có những đứa trẻ đi qua “thời kỳ quá độ” (giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn) một cách dễ dàng, đầy tự tin, bản lĩnh, họ hiểu rõ mình là ai, lý tưởng và mục tiêu của cuộc đời mình là gì?. Nhưng lại có những đứa trẻ đi qua giai đoạn này một cách hết sức khó khăn, vất vả, các em cảm thấy tự ti, sợ sệt, vô vọng, bế tắc, thậm chí có em còn không xác định được lý tưởng sống của mình, không biết giá trị thực của bản thân, luôn nghĩ mình vô nghĩa, không còn giá trị từ đó có những suy nghĩ và việc làm tiêu cực ảnh hưởng đến bản thân và mọi người xung quanh khiến thầy cô, gia đình, bạn bè và xã hội phải quan tâm phải lo lắng (3).

 Tình trạng trẻ em như vậy xuất hiện ngày càng nhiều trên thế giới và trong xã hội Việt Nam hiện nay, đặc biệt ở các khu vực đô thị hay thành phố lớn. Hiện tượng này xảy ra đã và đang làm cho các nhà hoạch định chính sách phải đau đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng của nguồn lao động của mỗi quốc gia, dân tộc.

 Những học sinh này thường không thích giao lưu, thích co mình, hay cáu bẳn, đôi khi còn có khuynh hướng bạo lực, thậm chí có ý định tự tử để từ bỏ cuộc sống. Đó là biểu hiện của “căn bệnh” gì vậy? Đối với các nhà hoạt động giáo dục khi gặp những học sinh này nếu chúng ta sử dụng các phương pháp thông thường sẽ không thể nào có kết quả, thậm chí có khi còn làm cho tình trạng xấu đi rất nhiều, đó là thực tế mà bản thân tôi đã gặp cách đây vài năm. Tìm ra phương pháp hữu hiệu để giáo dục trẻ em có biểu hiện tiêu cực đó hiện nay là một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi các giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm ở các trường phổ thông nói riêng, hệ thống giáo dục nói chung của Việt Nam phải quan tâm giải quyết.

 

doc 17 trang thuychi01 10601
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giáo dục hỗ trợ học sinh có biểu hiện “trầm cảm” ở lớp 10A Trường THPT Ngọc Lặc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục
Nội dung cơ bản
Trang
I.
 1.1 
 1.2
 1.3
 1.4
 1.5
II.
 2.1
 2.2
 2.3
 2.3.1
 2.3.2
 2.3.3
 2.3.4
 2.3.5
 2.3.6
 2.3.7
 2.4
III.
 3.1
 3.2
Mở đầu
Lý do chọn đề tài:
Mục đích nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
Những điểm mới của sáng kiến:
Nội dung
Cơ sở lý luận:
Thực trạng:
Giải pháp:
 Giải pháp thứ một:
 Giải pháp thứ hai:
 Giải pháp thứ ba:
 Giải pháp thứ bốn:
 Giải pháp thứ năm:
 Giải pháp thứ sáu:
 Giải pháp thứ bảy:
Hiệu quả:
Kết luận và kiến nghị
Kết luận:
Kiến nghị:
Tài liệu tham khảo
2
3
3
3
3
3
5
6
6
7
8
11
12
13
14
14
15
15
I. Mở đầu:
1.1 Lí do chọn đề tài:
Trong thế giới này cái quý nhất là con người, trong con người cái quý nhất là trí tuệ, mà trí tuệ chỉ có được nhờ con đường học vấn và trải nghiệm trong đời sống xã hội. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy có những đứa trẻ đi qua “thời kỳ quá độ” (giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn) một cách dễ dàng, đầy tự tin, bản lĩnh, họ hiểu rõ mình là ai, lý tưởng và mục tiêu của cuộc đời mình là gì?... Nhưng lại có những đứa trẻ đi qua giai đoạn này một cách hết sức khó khăn, vất vả, các em cảm thấy tự ti, sợ sệt, vô vọng, bế tắc, thậm chí có em còn không xác định được lý tưởng sống của mình, không biết giá trị thực của bản thân, luôn nghĩ mình vô nghĩa, không còn giá trị từ đó có những suy nghĩ và việc làm tiêu cực ảnh hưởng đến bản thân và mọi người xung quanh khiến thầy cô, gia đình, bạn bè và xã hội phải quan tâm phải lo lắng (3).
 	Tình trạng trẻ em như vậy xuất hiện ngày càng nhiều trên thế giới và trong xã hội Việt Nam hiện nay, đặc biệt ở các khu vực đô thị hay thành phố lớn. Hiện tượng này xảy ra đã và đang làm cho các nhà hoạch định chính sách phải đau đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng của nguồn lao động của mỗi quốc gia, dân tộc.
 	Những học sinh này thường không thích giao lưu, thích co mình, hay cáu bẳn, đôi khi còn có khuynh hướng bạo lực, thậm chí có ý định tự tử để từ bỏ cuộc sống. Đó là biểu hiện của “căn bệnh” gì vậy? Đối với các nhà hoạt động giáo dục khi gặp những học sinh này nếu chúng ta sử dụng các phương pháp thông thường sẽ không thể nào có kết quả, thậm chí có khi còn làm cho tình trạng xấu đi rất nhiều, đó là thực tế mà bản thân tôi đã gặp cách đây vài năm. Tìm ra phương pháp hữu hiệu để giáo dục trẻ em có biểu hiện tiêu cực đó hiện nay là một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi các giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm ở các trường phổ thông nói riêng, hệ thống giáo dục nói chung của Việt Nam phải quan tâm giải quyết.
 Năm 2013 tôi được Ban giám hiệu nhà trường giao chủ nhiệm lớp 10A, thời gian đầu tiếp xúc đa số các em ngoan và biết nghe lời, sau đó chừng độ 4 đến 5 tuần, có 1 học sinh nam có biểu hiện hoàn toàn khác thường so với các học sinh khác, thậm chí khác hẳn đối với bản thân em nữa. Từ một học sinh rất ngoan, hiền ít nói và quan hệ tương đối tốt với bạn bè trong lớp em trở nên trái tính, trái nết, hay cáu kỉnh, tức giận chuyện không đâu và thái độ nóng nảy lộ rõ với bạn bè kể cả với thầy giáo và người lớn tuổi trong gia đình. Em luôn trong trạng thái bất an, dễ kích động, mệt mỏi và thiếu năng lượng, hay thu mình và cảm thấy buồn vô vọng thậm chí có ý định bỏ nhà ra đi vì nghĩ mình không còn giá trị. Nhận thấy điều đó tôi đã gọi em lên phòng riêng và thuyết giảng nhưng không hiệu quả, em đã tỏ thái độ tức giận, thậm chí thù hận thể hiện qua ánh mắt đỏ ngầu vô cảm cả với tôi và từ hôm đó em không đến lớp nữa. Tìm hiểu thông tin qua bạn bè, gia đình tôi mới biết em đang bị “tha hóa” và chính tôi với sự nhiệt tình, trách nhiệm nhưng thiếu hiểu biết về phương pháp giáo dục nên đã đẩy em ra xa lớp học, làm trầm trọng hơn căn bệnh tâm lý đang dần phát lộ trong con người em. Từ thực tế đó bản thân tôi đã tìm hiểu và chuyển sang sử dụng giải pháp khác. Sau một thời gian cùng với chuyên gia tâm lý, gia đình, bạn bè, và bản thân em, tôi đã đưa được em trở lại trường học và năm nay em đang chuẩn bị tham gia kỳ thi THPT Quốc gia như những học sinh bình thường khác với sự tự tin, bản lĩnh để bước lên một nấc thang mới của cuộc đời. 
 	Để giúp đỡ những giáo viên khác không đi vào “vết xe đổ” như tôi ở bài viết này tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã sử dụng đối với em để các đồng chí tham khảo và rút kinh nghiệm, bài viết này tôi đặt tiêu đề là: “Một số giải pháp giáo dục hỗ trợ học sinh có biểu hiện “trầm cảm” ở lớp 10A Trường THPT Ngọc Lặc”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Ở bài viết này tôi muốn giới thiệu đến các đồng nghiệp về một số giải pháp giáo dục hỗ trợ học sinh có biểu hiện trầm cảm ở lứa tuổi vị thành niên để các đồng chí tham khảo và áp dụng khi gặp phải đối tượng học sinh có biểu hiện trần cảm để tránh trường hợp “đổ thêm dầu vào lửa” giống như tôi vài năm trước.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
Ở bài viết này bản thân tôi chỉ chuyên sâu nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra giải pháp giáo dục hỗ trợ đối với một học sinh ở lứa tuổi vị thành niên – học sinh Phạm Nhật Thanh lớp 10A Trường THPT Ngọc Lặc đang có biểu hiện trầm cảm và đang điều trị bởi chuyên gia tâm lý mà thôi.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Trong bài viết này bản thân tôi chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập thông tin, khảo sát thực tế và một số phương pháp nghiên cứu khác có liên quan.
1.5 Những điểm mới của SKKN:
Bài viết này tôi đã tìm ra một số nguyên nhân khiến em học sinh Thanh lớp 10A trở nên “khó dạy”, bất an, dễ nóng nảy, kích động, mệt mỏi, thiếu năng lượng, buồn vô vọng, khó tập trung ở lứa tuổi vị thành niên. Đồng thời phát hiện ra một số phương pháp đặc thù khác biệt để giáo dục, hỗ trợ (giúp đỡ) những học sinh có biểu hiện của một căn bệnh tâm lý mà nó đang dần trở nên phổ biến và tác động tiêu cực đến thế hệ trẻ Việt Nam – bệnh trầm cảm ở lứa tuổi vị thành niên.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1 Cơ sở lí luận:
 Ở Việt Nam, quyền học tập là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Điều 39 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (1) được cụ thể trong Luật giáo dục & đào tạo và một số văn bản dưới luật khác của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước luôn tạo điều kiện và tổ chức để mọi công dân thực hiện tốt quyền học tập của mình như đầu tư vào hệ thống giáo dục, vào trường học thậm chí xây dựng các trường chuyên biệt để giáo dục những học sinh khuyết tật, những học sinh có biểu hiện khác thường và có chế độ ưu đãi, đãi ngộ đối với những giáo viên giảng dạy, hỗ trợ các đối tượng này. 
 Trầm cảm là một căn bệnh nguy hiểm trong xã hội hiện nay khiến con người có thể thay đổi cách nhìn đối với thế giới bên ngoài và thấy mọi điều đều trở nên vô vọng. Trầm cảm không những làm cho công việc và cuộc sống hàng ngày trở nên khó khăn dường như không thể vượt qua mà còn khiến con người có cảm giác cô đơn, trơ trọi muốn tự tử để kết thúc cuộc sống của mình họ không nhận thấy mình thật sự có ý nghĩa đối với mọi người xung quanh, gia đình và xã hội.
Trầm cảm ở lứa tuổi vị thành niên thường biểu hiện: Buồn vô vọng, cáu kỉnh, tức giận, hận thù, bạo lực, mất hứng thú trong các hoạt động, thay đổi thói quen ăn ngủ, dễ kích động, bất an, khó tập trung và có ý tưởng tự tử.
Nguyên nhân của bệnh trầm cảm: Hiện nay người ta chưa xác định rõ các nguyên nhân gây ra căn bệnh trầm cảm, nhưng các yếu tố như di truyền, môi trường, mất cân bằng nội tiết tố trong cơ thể (chẳng hạn tuổi vị thành niên, phụ nữ sau khi sinh) là những yếu tố nguy cơ liên quan đến trầm cảm.
Trầm cảm là căn bệnh có thể điều trị được. Hiện nay trầm cảm được điều trị bằng hai phương pháp: Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm và phương pháp tâm lý trị liệu (đối thoại, nói chuyện với người bệnh), tỷ lệ ổn định lên đến 70 – 80% nếu được điều trị sớm và đúng cách. Cả hai phương pháp điều trị nêu trên đòi hỏi phải có các chuyên gia như bác sĩ, nhà tâm lý, nhà tâm thần hay chuyên viên tư vấn những người có hiểu biết sâu sắc và kỹ năng hỗ trợ người trầm cảm (5), nhưng để người bệnh nhanh chóng ổn định trở lại thì rất cần đến sự hỗ trợ của gia đình, bạn bè, thầy cô và sự nổ lực của bản thân người bệnh. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để chúng ta có thể giáo dục hỗ trợ những trẻ vị thành niên đang có biểu hiện trầm cảm ở các trường THPT.
 Học sinh THPT là những trẻ em có độ tuổi từ 14 đến 18 tuổi, lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi có nhiều thay đổi về cơ thể và nhân cách, nhiều hoóc môn mới trong cơ thể bắt đầu xuất hiện, “lứa tuổi khủng hoảng” hay là “thời kỳ quá độ” chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, lứa tuổi với nhiều khó khăn, phức tạp trong cuộc đời của mỗi con người, lứa tuổi học tập và trưởng thành, hoàn thiện và phát triển. Ở giai đoạn này có rất nhiều sự thay đổi về thể chất và tinh thần khiến cho nhận thức và thể trạng của các em khác hẳn (2). Hiểu được sự thay đổi về đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này sẽ là một cơ sở lí luận quan trọng để chúng ta giáo dục trẻ một cách hiệu quả.
“Nhân vô thập toàn”(4) con người không ai hoàn thiện, mỗi người có những mặt mạnh và hạn chế riêng. Phát hiện, phát triển mặt mạnh, khắc phục, bỏ đi những hạn chế, khuyết điểm trong mỗi con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động giáo dục hiện đại. Trong quá trình hình thành nhân cách của con người, các yếu tố như nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò quan trọng nhưng yếu tố quyết định nhân cách của mỗi người đó lại là tự bản thân mỗi con người. Niềm tin vào giáo dục, tin vào sự thay đổi theo chiều hướng tích cực trong mỗi cá nhân cũng là cơ sở lý luận quan trọng để tôi viết bài này.
Căn cứ cuối cùng quyết định sự lựa chọn của tôi đó là: “Muốn giáo dục con người phải hiểu một con người”(6), “biết mình biết người trăm trận trăm thắng”. Đó là nguyên lý ông cha ta đã dạy và nó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
2.2 Thực trạng vấn đề:
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, bệnh trầm cảm cướp đi mỗi năm trung bình 850000 người trên thế giới, dự báo đến năm 2020 trầm cảm là căn bệnh xếp thứ 2 trong số những căn bệnh phổ biến toàn cầu khoảng 121 triệu người mắc bệnh. Ở Việt Nam, chưa có con số chính xác về tỉ lệ trẻ vị thành niên mắc bệnh trầm cảm nhưng gần đây cũng cho thấy dấu hiệu có nhiều em có những biểu hiện triệu chứng của bệnh này(5), đặc biệt khi đọc các trang Blog cá nhân tâm sự trên mạng xã hội thì chúng ta sẽ thấy căn bệnh trầm cảm đang xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên phổ biến ở Việt Nam và đây là bài toán đang làm đau đầu các nhà quản lý giáo dục, các y bác sĩ, gia đình và các nhà hoạch định chính sách.
 Năm 2013, tôi được Ban giám hiệu nhà trường giao chủ nhiệm lớp 10A, lớp có tổng số 45 học sinh, các em chủ yếu sinh năm 1997, 1998. Đa số các em là người dân tộc thiểu số sống ở khu vực 135(Khu vực kinh tế đặc biệt khó khăn) hoặc vùng cao, chỉ có vài em sống cùng cha mẹ tại thị trấn Ngọc Lặc và một số xã lân cận trường học như xã Ngọc Khê, xã Minh Sơn
Thuận lợi: Đa số các em có sức khỏe tốt, hiền ngoan, lễ phép và một số phụ huynh rất quan tâm, hệ thống lớp học tương đối thoáng mát, đội ngũ giáo viên trẻ nhiệt tình.
Khó khăn: Đa số các em là người dân tộc thiểu số trình độ nhận thức còn gặp nhiều hạn chế, nhà xa trường học không thể đi về trong ngày học sinh phải ở trọ, điều kiện kinh tế phần lớn rất khó khăn chủ yếu là con em nông dân, số ít là con em các gia đình buôn bán nhỏ. Lớp tương đối đông nên gặp khó khăn trong tổ chức và học tập, một số học sinh có hộ khẩu ở thị trấn nhưng kết quả học tập không cao lại thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế của trường lớp như em Khánh, em Chiến, em Kiên, em Đức, em Thanh; Cơ sở vật chất của trường còn thiếu như khu hiệu bộ, nhà thi đấu, nhà đa năng và nhiều phòng ban khác.
Sau một tuần nhận lớp không thấy điều gì bất thường tôi tổ chức cho học sinh tự quản. Nhưng đến tuần thứ hai bắt đầu xuất hiện một số học sinh có biểu hiện bất hợp tác, thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế của trường, lớp như: Đi học chậm, nghỉ học vô lý do, không học bài cũ, nói chuyện làm việc riêng trong giờ học, không tham gia đồng phục theo quy định, mang điện thoại và sử dụng điện thoại di động trong giờ học.v.v. Đó là những biểu hiện được xem là bình thường ở trường miền núi như trường chúng tôi. Tuy nhiên sau chừng độ 3 tuần trong lớp có một học sinh có biểu hiện khác thường, đó là em Phạm Nhật Thanh: Thanh là một học sinh bề ngoài rất ưa nhìn, được bạn bè quí mến, hiền ngoan, lễ phép và hòa đồng với bạn bè, bỗng nhiên em trở thành một con người khác hẳn chỉ trong vòng khoảng 2 tuần. Nhà ở gần trường học nhưng em luôn đi học muộn, tính tình cáu bẳn hung hăng vô cớ, thậm chí còn hành hung với cả bạn gái trong lớp vì những chuyện không đâu. Ra chơi em không chơi với các bạn mà thường ngồi một mình buồn vô vọng, mệt mỏi, thiếu năng lượng và chán chường, không tập trung nhiều lúc còn ngủ gục trên bàn. Trước những biểu hiện bất ổn đó, là một giáo viên chủ nhiệm lớp và giảng dạy bộ môn GDCD của lớp tôi mời em lên văn phòng Đoàn nói chuyện để tìm hiểu, để giáo dục. 
Câu hỏi đầu tiên tôi dành cho em là: “Sao ra chơi không cùng các bạn đá cầu, nô đùa mà một mình tư lự vậy em?” Em nhìn tôi và trả lời cộc lốc: “Toàn bọn con nít”. Tôi thật sự ngỡ ngàng trước thái độ và câu trả lời cộc lốc của em. Thế là bệnh nghề nghiệp lại tái phát, tôi phân tích rồi thuyết giảng cho em một hồi. Nhưng thay vì thái độ nể phục và hành vi hối cải em lại tỏ ra cáu kỉnh, tức giận thậm chí còn hằn học khó chịu và kích động với tôi. Tôi thấy vậy vội gọi điện cho phụ huynh lên để trao đổi. Khi phụ huynh lên tôi mời phụ huynh vào phòng và trao đổi về quá trình học tập và rèn luyện của Thanh đặc biệt là thái độ ngỗ ngược bất hợp tác vừa xảy ra với tôi cho phụ huynh biết thì em đã nói trong tiếng nấc: “Có thế mà cũng trách, cũng mời”. Tôi không nói gì chỉ nhìn em với ánh mắt nghiêm nghị không hài lòng.
Tôi cho em trở về lớp học rồi trao đổi sâu thêm với phụ huynh về biểu hiện tiêu cực và trạng thái tinh thần khác thường lúc đó của em. Phụ huynh không nói gì mà chỉ xin lỗi thầy vì sự ngỗ ngược của con trai mình đồng thời phụ huynh cũng không giấu được sự khó hiểu về tính cách con mình mấy ngày hôm nay. “Không hiểu sao khoảng 2 tuần nay nó luôn cáu kỉnh với mọi người trong gia đình. Hôm qua nó cãi nhau với thằng anh trai vừa học chuyên nghiệp về. Chế độ ăn ngủ thì thất thường, gia đình sử dụng biện pháp cứng rắn một chút thì nó bỏ nhà ra đi” . Tôi giật mình với trường hợp này. Đây không phải là một trường hợp rối loạn tâm sinh lý – rối loạn cảm xúc bình thường xảy ra phổ biến ở lứa tuổi vị thành niên mà là một căn bệnh tâm lý mà tôi đã đọc được ở đâu đó. Bệnh trầm cảm ở tuổi vị thành niên. Tôi nói cho phụ huynh những biểu hiện cơ bản của căn bệnh trầm cảm đang diễn ra tương đối phổ biến ở lứa tuổi vị thành niên và rất mong gia đình cho em đi khám bác sỹ tâm lý để họ giúp đỡ. Từ hôm đó em không đến lớp để học tập nữa. 
Các đồng chí nghĩ gì về em học sinh này? Quả khác biệt với sự bất trị, khó bảo ở lứa tuổi khủng hoảng, lứa tuổi “đứng cửa sổ” lứa tuổi “tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn” phải vậy không các đồng chí? Cần phải làm gì đó để đưa em quay lại trường học, giúp em và gia đình em vượt qua giai đoạn khó khăn này một cách hiệu quả? Đó là suy nghĩ của bản thân tôi lúc bấy giờ và tôi đã hành động.
2.3 Giải pháp:
2.3.1 Giải pháp thứ nhất:
 	Thấu hiểu từng học sinh và phân loại học sinh theo nhóm, chú ý đặc biệt những học sinh có biểu hiện “khó dạy” từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn giáo dục con người phải hiểu một con người, đó là một trong những nguyên tắc giáo dục hiện đại đầu tiên mà tôi sử dụng.
 	Sau một thời gian tìm hiểu đối tượng học sinh dựa trên cơ sở sơ yếu lý lịch cụ thể, học bạ, trao đổi với giáo viên ở cấp THCS, bạn bè, gia đình và mọi người xung quanh Tôi được biết Thanh là một học sinh xuất thân từ một gia đình bố là viên chức nhà nước, mẹ buôn bán nhỏ, có anh trai đang học trường Công an nhân dân, Thanh hiện sống cùng bố mẹ tại số nhà 57 phố Lê Thánh Tông thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, Ở cấp THCS em là học sinh khá của Trường THCS Lê Đình Chinh - một trong những trường có uy tín ở huyện. Lớp 6, 7, 8 em đều đạt học sinh tiên tiến cả năm nhưng đến học kỳ II lớp 9 sức học sa sút, phải rất cố gắng em mới đậu vào trường THPT Ngọc Lặc với số điểm không cao và sau đó được xếp vào lớp 10A một “lớp đại trà” do tôi chủ nhiệm.
Trong bản lí lịch em ghi: “Sau khi tốt nghiệp THPT thích trở thành cầu thủ bóng đá, nhưng cha mẹ lại muốn em học ngành công an vì có việc làm ngay”. Đây là một mâu thuẫn rất phổ biến trong việc định hướng và lựa chọn nghề nghiệp giữa con trẻ và phụ huynh trong xã hội Việt Nam hiện nay. Tôi sẽ không để ý nếu như sau 3 tuần nhận lớp em không có những hành động lệch chuẩn, không muốn nói là ngỗ ngược khác thường như trên đã trình bày.
Tôi đến thăm gia đình em vào một buổi chiều thu cuối tháng 9 sau khi em nghỉ học vô lý do 3 ngày. Hôm đó, cả bố mẹ em đều ở nhà, sau một vài câu nói trao đổi về tình hình học tập của Thanh thời gian qua, đặc biệt những biểu hiện khác thường của em trong những ngày vừa rồi, mẹ em không cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào: “Tôi không hiểu sao nữa thầy ạ? Lúc trước nó có thế đâu? Trước đây nó là một đứa trẻ ngoan, biết nghe lời, luôn giúp đỡ cha mẹ trong công việc nhà bây giờ thì nó trở thành đứa trẻ nóng nảy, cáu bẳn và hằn học với tất cả mọi người. Hôm qua bố nó giận nên nói với nó vài câu phải chăng vậy mà nó đã bỏ nhà đi mãi tới nửa đêm mới về. Giờ đây nó chẳng nghe lời ai cả. Tôi lo cho cháu lắm thầy ạ”. 
Tôi hỏi tiếp: “Thanh nó có biểu hiện như vậy lâu chưa hả chị?”. 
Khoảng 3 tuần nay. Phụ huynh trả lời. 
Tôi hỏi tiếp: “Gia đình có biết nguyên nhân vì sao Thanh lại vậy không ạ?”
Bố em Thanh nói: “Không. Mọi việc trong gia đình tôi vẫn diễn ra bình thường”.
Tôi tiếp lời: “Hình như ước mơ của Thanh muốn làm cầu thủ bóng đá? 
Vâng, Bố em nói: “Thì vậy đó thầy. Nó thích đá bóng nhưng tôi thấy sự nghiệp đó không bền nên tôi khuyên cháu cố gắng học để vào trường an ninh, vì định hướng nghề nghiệp trái ngược nhau như vậy nên bố con có nhiều lúc bất hòa rồi nó như thế. Thật sự gia đình chỉ muốn tốt cho cháu thôi thầy ạ”. 
Hình như tôi đã lờ mờ hiểu ra một vài nguyên nhân làm em Thanh “tha hóa” – không còn là chính mình nữa. Tôi tư vấn cho gia đình em về xu thế và căn cứ để lựa chọn nghề nghiệp hiện nay và không quên giải thích một chút về các dạng tư duy của mỗi người trong xã hội. Rồi xin phép ra về và một lần nữa yêu cầu gia đình hãy mang Thanh đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe tâm lý càng sớm càng tốt. 
2.3.2 Giải pháp thứ hai: 
 	Tổ chức mạng lưới tự quản để xây dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết, nhân văn và thân thiện.
Ngoài là một giáo viên chủ nhiệm lớp, bản thân tôi còn là giáo viên bộ môn giảng dạy ở các khối lớp 10, 11 và kiêm nhiệm một số công tác khác như lao động và hoạt động Công đoàn nhà trường do vậy rất ít thời gian để quản lý các em, không những thế việc thành lập mạng lưới tự quản trong lớp còn tạo điều kiện để các em có cơ hội làm quen và thực hiện kỹ năng quản lý, một trong những kỹ năng quan trọng dẫn đến sự thành công của các em sau này.
Tổng số lớp có 45 học sinh, trên cơ sở tín nhiệm của lớp, sự tự tin của cá nhân học sinh và sự quan sát của bản thân, tôi tổ chức cho tập thể bầu các chức danh như: Lớp trưởng, lớp phó học tập, lớp phó văn thể, lớp phó đời sống, lớp phó lao động, thủ quỹ và tôi chia lớp làm 5 tổ, mỗi tổ có 9 học sinh, trong đó 1 tổ trưởng, một tổ phó, đồng thời kiện toàn tạm thời tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong chi Đoàn.
Tổ chức bầu và kiện toàn tổ chức bộ máy tự quản của lớp xong tôi họp lại và quy định rõ chức năng, nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng loại cán bộ tự quản. Trước buổi sinh hoạt hàng tuần bộ máy cán sự lớp có trách nhiệm họp trước để thống nhất các nhận xét tuần qua và đưa ra kế hoạch hoạt động cho tuần kế tiếp sau đó báo cáo trực tiếp với giáo viên chủ nhiệm để xin ý kiến chỉ đạo. Hiện nay, ở trường THPT Ngọc Lặc giáo viên chủ nhiệm thường bỏ qua cuộc họp trước của ban cán sự lớp mà trực tiếp sinh hoạt, do vậy chất lượng, hiệu quả của công tác tự quản chưa cao và không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của tậ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giao_duc_ho_tro_hoc_sinh_co_bieu_hien.doc