SKKN Tổ chức hoạt động dạy đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực” (tiết 10, 11 - Ngữ văn 12 - Ban cơ bản)

SKKN Tổ chức hoạt động dạy đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực” (tiết 10, 11 - Ngữ văn 12 - Ban cơ bản)

Hiện nay việc nâng cao chất lượng giáo dục trong các bậc học từ phổ thông đến đại học đang là vấn đề bức thiết của nhà trường và xã hội. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8, khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Đồng thời Nghị quyết cũng xác định mục tiêu cụ thể: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”.

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường THPT thì phương pháp giáo dục rất quan trọng. Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2 đã nêu rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Định hướng trên đã trở thành tinh thần cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường.

 

doc 23 trang thuychi01 5252
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tổ chức hoạt động dạy đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực” (tiết 10, 11 - Ngữ văn 12 - Ban cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ HOÀN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
“NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, NGÔI SAO SÁNG TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC” - PHẠM VĂN ĐỒNG CHO HỌC SINH LỚP 12 THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
(Tiết 10-11, Ngữ văn 12, ban cơ bản)
Họ và tên: Phạm Thị Giang
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hoàn
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC:
1. Mở đầu.
Trang 1
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trang 1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trang 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trang 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trang 2
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Trang 3
2. Nội dung
Trang 3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trang 3
2.1.1. Khái niệm năng lực và dạy học định hướng phát triển năng lực
Trang 3
2.1.2. Dạy học đọc hiểu nhằm phát triển năng lực cho HS .
Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trang 4
2.2.1. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong môn Ngữ văn ở trường THPT.
Trang 4
2.2.2. Thực trạng dạy bài "Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc".
Trang 5
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trang 5
2.3.1. Giáo viên đọc, nghiên cứu tài liệu và vận dụng vào thiết kế tổ chức giờ dạy
Trang 5
2.3.1.1. Giáo viên đọc kĩ các tài liệu có liên quan đến bài học.
Trang 5
2.3.1.2. Lựa chọn và sử dụng một số biện pháp chủ yếu nhằm phát triển năng lực học sinh
Trang 6
2.3.2. Giáo án thực nghiệm: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng( tiết 10, 11 PPCT). Hình thức dạy học: Dạy học trên lớp.
Trang 6
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trang 18
3. Kết luận và kiến nghị
Trang 19
3.1. Kết luận
Trang 19
3.2. Kiến nghị
Trang 20
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
 	Hiện nay việc nâng cao chất lượng giáo dục trong các bậc học từ phổ thông đến đại học đang là vấn đề bức thiết của nhà trường và xã hội. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8, khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Đồng thời Nghị quyết cũng xác định mục tiêu cụ thể: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. 
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường THPT thì phương pháp giáo dục rất quan trọng. Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2 đã nêu rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Định hướng trên đã trở thành tinh thần cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. 
Có thể nói, cốt lõi của đổi mới dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng là hướng hoạt động học tập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh (HS) trong nhận thức, cảm thụ và ứng dụng các kiến thức kĩ năng văn học. Giáo viên (GV) dạy Ngữ văn không chỉ truyền thụ kiến thức, kĩ năng văn học tới học sinh mà có cả vai trò của người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh chủ động tiếp nhận, cảm thụ, tìm tòi, khám phá để cảm cái hay, cái đẹp của các vấn đề văn học.
 	Trong chuyên ngành Ngữ văn, tiếp nhận có kết quả một tác phẩm văn học đã khó nhưng tiếp nhận có kết quả một văn bản nghị luận còn khó hơn nhiều. Học sinh thường có định kiến văn bản nghị luận là khó, khô khan nên thường có tâm lí ngại đọc, ngại suy nghĩ tìm tòi, khám phá. Vì vậy, giáo viên phải lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp nhất để phá vỡ các định kiến trên, tác động đến tình cảm, đem lại niềm hứng thú, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
 	Văn bản nghị luận là một trong những loại văn bản được học trong chương trình Ngữ văn. Tiếp nhận những văn bản này học sinh như đang được “chinh phục” những cách nghị luận mẫu mực của các tác giả. Và qua đó sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn về các yếu tố cơ bản của văn nghị luận, nhất là về cách
lập luận, diễn đạt trong văn nghị luận.
 	Vậy làm thế nào để mỗi tiết dạy Ngữ văn, đặc biệt là tiết đọc- hiểu văn bản nghị luận trở thành sự đam mê, thích thú được tìm hiểu, khám phá để phát huy được tính tích cực, chủ động của mỗi học sinh. Điều này khiến tôi trăn trở rất nhiều. Trong những năm tháng giảng dạy, tôi luôn có ý thức suy nghĩ, tìm tòi cách dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả tìm hiểu cái hay, cái đặc sắc của nghệ thuật lập luận trong văn nghị luận. Tôi luôn tự đặt câu hỏi: Làm thế nào để học sinh chiếm lĩnh văn bản một cách hiệu quả nhất? Làm sao để các em không còn định kiến văn bản nghị luận là khó và khô khan? Và đặc biệt làm thế nào để gây được sự hứng thú, lòng say mê văn bản nghị luận trong các em để các em tích cực, chủ động chiếm lĩnh nó
 	Đó là những lí do để tôi lựa chọn đề tài “Tổ chức hoạt động dạy đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực”( tiết 10, 11- Ngữ văn 12- Ban cơ bản).
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy đọc hiểu văn bản nghị luận nói chung và văn bản "Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc" nói riêng.
- Giúp học sinh nâng cao hứng thú học tập văn bản nghị luận và phát triển năng lực. 
- Người viết còn mong muốn qua bài học, học sinh rút ra được những nét nghệ thuật nghị luận đặc sắc của Phạm Văn Đồng, phương pháp học theo đặc trưng thể văn nghị luận, một số kinh nghiệm khi làm văn nghị luận.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. 
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ những tài liệu liên quan đến bài "Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc" .
- Biện pháp tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực”.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài này sẽ kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau để phát hiện rõ vấn đề. Chúng tôi có thể kể tên các phương pháp tiêu biểu sau:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để xác định cơ sở lí luận chung cho đề tài, thiết kế giáo án thực nghiệm. Các tài liệu nghiên cứu bao gồm các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về “năng lực” và “dạy học đọc hiểu văn bản theo định hướng năng lực”. Phương pháp này được thực hiện thông qua các thao tác tổng hợp, phân tích, thống kê. 
1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát: Sử dụng phương pháp này với 2 mục đích: khảo sát thực trang thiết kế giáo án dạy đọc hiểu văn bản, thực trạng dạy và đọc hiểu văn bản nghị luận “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”.
1.4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích tổng hợp nhằm soi sáng cho những nhận định chung. Nhờ phương pháp này mà quá trình tổ chức bài học theo đúng đặc trưng thể loại và phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh bài học.
	1.4.4. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp này được thể hiện thông qua hoạt động thế kế giáo án thực nghiệm dạy học đọc hiểu văn bản "Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc" theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
	1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 
So với các SKKN trước đây, Sáng kiến kinh nghiệm này chúng tôi chú trọng thiết kế giáo án sử dụng các phương pháp/ kĩ thuật dạy học (PP/KTDH) tích cực để tổ chức dạy đọc hiểu giúp học sinh biết cách đọc, cách tiếp cận, khám phá nội dung và nghệ thuật của văn bản theo các mức độ khác nhau từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi dậy cho học sinh phát huy năng lực đọc hiểu các văn bản theo đặc trưng thể loại, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Tức là học sinh có khả năng trình bày, thể hiện suy nghĩ, cảm nhận của bản thân trước đối tượng, vấn đề đặt ra.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1.1. Khái niệm năng lực và dạy học định hướng phát triển năng lực 
Năng lực là khả năng làm chủ và vận dụng hợp lí các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. 
Năng lực gồm năng lực chung như: Hợp tác (cùng tìm hiểu, cắt nghĩa, thảo luận về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; cùng giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra từ tác phẩm; tương tác trong quá trình tạo lập văn bản, chỉnh sửa văn bản và đánh giá chéo; hỗ trợ nhau về kinh nghiệm, tri thức đọc hiểu, tạo lập văn bản); Tự quản bản thân (điều chỉnh thái độ, cách ứng xử, hành vi của bản thân trong và sau khi học tác phẩm; độc lập, chủ động khám phá giá trị của tác phẩm; thích ứng với các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau) và các năng lực đặc thù như: Giao tiếp tiếng Việt (sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt phù hợp, hiệu quả trong quá trình đọc hiểu; qua các bài học tiếng Việt và qua các bài học tạo lập văn bản); Cảm thụ thẩm mĩ (cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ, hình tượng văn học; đánh giá được ý nghĩa, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học; có quan điểm sống và hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện).
Dạy học phát triển năng lực chính là việc phát huy mạnh mẽ tính tích cực, 
chủ động, sáng tạo của học sinh; học sinh là bạn đọc – sáng tạo; thực hiện “học đi đôi với hành” (vận dụng kiến thức vào thực tiễn); tăng cường dạy cách đọc, cách viết, cách giải quyết vấn đề; tổ chức các hoạt động học tập ở học sinh theo lý thuyết kiến tạo và thuyết đa trí thông minh.
2.1.2. Dạy học đọc hiểu nhằm phát triển năng lực cho HS .
 	Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Theo chúng tôi, dạy học đọc hiểu theo định hướng phát triển năng lực học sinh được hiểu là một quan điểm dạy học, tập trung vào “kết quả đầu ra” của người học. GV tiến hành tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp HS không chỉ biết, hiểu những kiến thức của bài học, mà còn phải biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng ấy vào những hoạt động cụ thể, giải quyết tình huống trong học tập và cuộc sống.
 	2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.2.1.Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong môn Ngữ văn ở trường THPT.
 	Tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng trong nhà trường phổ thông đã được chứng minh trong thực tiễn thời gian qua. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng đào tạo, mà khâu then chốt là không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Xét một cách tổng thể, nhiều vấn đề về lí thuyết dạy học đã được phổ biến, rút kinh nghiệm, song đôi lúc chưa phù hợp ở một số địa phương. 
Trên tinh thần đổi mới toàn diện về giáo dục, phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng đã có nhiều đổi mới. Từ cách thuyết giảng một chiều, giáo viên làm việc là chính, học sinh thụ động nghe như một cái máy sang vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác. Vai trò của người thầy trong mỗi tiết dạy đã rõ nét hơn. Nhiều giờ dạy Ngữ văn đã được sử dụng những phương tiện và kĩ thuật dạy học hiện đại, việc áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học cũng diễn ra rộng rãi. Mối quan tâm hàng đầu đối với những người trực tiếp giảng dạy văn ở nhà trường phổ thông là làm thế nào để phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ môn Ngữ văn, định hướng phát triển năng lực học sinh.
 	Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy không ít giáo viên lựa chọn phương pháp chưa phù hợp, hoặc sự phối hợp giữa các phương pháp chưa nhịp nhàng nên hiệu quả và chất lượng của một giờ Ngữ văn chưa cao. Lại có những giờ dạy Ngữ văn được đánh giá cao về đổi mới phương pháp nhưng tính tích cực, chủ động của các em chưa đồng đều, chỉ một bộ phận (nhóm trưởng, thư ký) làm việc các thành viên khác ngồi chơi, xem hoặc quan sát bạn làm. Các em vẫn chưa thật sự sôi nổi, hăng hái phát biểu và tranh luận. Vẫn còn tình trạng đọc chép, diễn giải hoặc thuyết trình một chiều. Nhiều giờ dạy còn gượng gạo, gò bó, áp đặt. Việc đối thoại trong giờ học thực tế chưa hiệu quả, phần lớn là hỏi đáp chứ chưa phải là đối thoại đích thực. Nhất là văn nghị luận, nhiều giờ dạy diễn ra khô khan. Người dạy thì dạy theo “lộ trình” đã định sẵn nhằm cung cấp kiến thức cơ bản cho học sinh. Người học thì thụ động chỉ biết ghi chép theo lời, ý giáo viên, không chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức, không chủ động đặt ra câu hỏi để cùng giải quyết. Rất ít học sinh ý thức được rằng, học văn là được thưởng thức văn chương, để bồi đắp thẩm mĩ, hoàn thiện nhân cách nên các em chưa tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức. Đó là một thực tế mà mỗi giáo viên dạy Ngữ văn cần phải suy ngẫm và trăn trở.
 	Như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy Ngữ văn nói riêng đang được tiến hành ở tất cả các cấp học, đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Song hiệu quả chưa đồng đều. Học sinh chưa thực sự phát huy tính tích cực, chủ động, chưa đóng vai trò là chủ thể chiếm lĩnh thực sự trong giờ học. Thế nên học sinh qua giờ học cũng chưa được định hướng phát triển năng lực cụ thể, đa dạng.
2.2.2. Thực trạng dạy bài "Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc".
 	Dù có nhiều đổi mới trong giảng dạy môn Ngữ văn nhưng trên thực tế khi dạy bài “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” vẫn là một trăn trở lớn đối với giáo viên. Đây là bài nghị luận đặc sắc của Phạm Văn Đồng cũng là áng văn nghị luận tiêu biểu của văn nghị luận Việt Nam hiện đại. Bài này vẫn chưa nhận được sự hào hứng, say mê của người học. Vì học sinh không thích đọc những luận điểm, luận cứ mà theo các em là dài dòng, khô khan. Và các em cũng không thích tìm hiểu cách lập luận, hành văn của người nghị luận. Nên tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh bài này giáo viên rất vất vả. Bài học thì khó, dài, học sinh thì thơ ơ, thụ động. Trong giờ học các em rất ít phát biểu, ít tranh luận, không thắc mắc, .... Vì thế mà giờ học diễn ra đơn điệu, tẻ nhạt. Nhiều em còn lúng túng, hiểu bài một cách hời hợt, chiếu lệ.
 	Qua khảo sát giáo viên dạy Ngữ văn cùng gần 100 học sinh trong trường THPT tôi đang công tác thì đa số giáo viên và học sinh đều thấy văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc" hay nhưng khó. Phần lớn học sinh ngại học văn nghị luận và chưa biết cách đọc hiểu bài nghị luận sao cho hiệu quả.
 	Từ thực trạng trên, chúng ta cần phải tìm cách xích lại gần hơn nữa giữa đối tượng khám phá với đối tượng tiếp nhận. Chính vì thế, để học sinh có hứng thú với những tiết dạy văn bản nghị luận, tôi đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Và tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài “Tổ chức hoạt động dạy đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng cho học sinh lớp 12 theo định hướng năng lực”.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.3.1. Giáo viên đọc, nghiên cứu tài liệu và vận dụng vào thiết kế tổ chức giờ dạy:
2.3.1.1. Giáo viên đọc kĩ các tài liệu có liên quan đến bài học, xác định
mục tiêu cần đạt của bài, lựa chọn những phương pháp và kĩ thuật (PP/KT) dạy học tích cực phù hợp nhất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực của học sinh. Đọc kĩ văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” trong sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1 của Nhà xuất bản Giáo dục, giáo viên xác định rõ các mục tiêu bài học cần đạt. 
2.3.1.2. Lựa chọn và sử dụng một số biện pháp chủ yếu nhằm phát triển năng lực học sinh:
	- Sử dụng đa dạng các phương pháp, các kĩ thuật dạy phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh như phương pháp trò chơi (trong hoạt độngtrải nghiệm), kĩ thuật động não (đọc và tìm hiểu cách nêu vấn đề, hệ thống lập luận của văn bản), kĩ thuật sơ đồ tư duy kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp vấn đáp (sử dụng kết hợp trong quá trình đọc hiểu về những giá trị của văn chương Nguyễn Đình Chiểu, “ánh sáng khác thường” trên bầu trời văn học của dân tộc), Trình bày một phút (HS nêu những nhận xét, ấn tượng sắc của cá nhân về giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản).
- Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lí hỗ trợ dạy học. Để phát huy tối đa hiệu quả của các PP/KT dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy bài “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” chúng tôi đã lựa chọn phương tiện dạy học và tìm kiếm các hình ảnh sau: máy tính, máy chiếu đa năng với màn hình khổ lớn được xây dựng trên công cụ Powerpoint. GV lựa chọn và tìm kiếm các hình ảnh, thông tin: về Phạm Văn Đồng, về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm của ông, về phong trào kháng Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 
- Kết hợp đa dạng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Thiết kế giáo án đọc hiểu văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” gắn liền với hình thức dạy học trên lớp. Các PP/KTDH trên kết hợp với sự đa dạng của hình thức dạy học chung cả lớp, dạy học nhóm, dạy học cá thể. 
2.3.2. Giáo án thực nghiệm:
“Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” - Phạm Văn Đồng.
Thời gian: 2 tiết ( tiết 10, 11 PPCT)
Hình thức dạy học: Dạy học trên lớp.
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp học sinh: 
1. Về kiến thức:
- Nắm được cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, sâu sắc và mới mẻ của Phạm Văn Đồng về 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_to_chuc_hoat_dong_day_doc_hieu_van_ban_nguyen_dinh_chie.doc