SKKN Tính dân chủ hóa trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975 qua tác phẩm “Chiếc thuyên ngoài xa”, tác giả Nguyễn Minh Châu

SKKN Tính dân chủ hóa trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975 qua tác phẩm “Chiếc thuyên ngoài xa”, tác giả Nguyễn Minh Châu

Đọc văn là phân môn quan trọng trong chương trình Ngữ văn cùng với Làm văn và tiếng Việt. Trong cơ cấu bộ môn Ngữ văn thì đọc văn (hay đọc hiểu văn bản) có một vị trí và vai trò to lớn. Nếu tiếng Việt cung cấp cho các em vốn từ, giúp các em biết cách thức hành văn và diễn đạt thì Đọc văn rèn cho các em năng lực đọc hiểu và khả năng cảm thụ văn bản hoàn chỉnh.

 Trong những năm gần đây, cấu trúc đề thi tốt nghiệp và đại học, mà bây giờ hợp nhất thành một kì thi chung là kì thi trung học phổ thông quốc gia (THPTQG) dần đi vào ổn định. Một đề thi sẽ có hai phần: đọc hiểu và làm văn. Trong phần làm văn sẽ có hai câu hỏi nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Như vậy, người dạy và người học muốn đạt được hiệu quả buộc phải thay đổi hình thức dạy và học sao cho đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đề thi. Dạy học sinh kiến thức đảm bảo tính hệ thống từ dễ đến khó, từ đơn giản tới phức tạp để học sinh luyện tập thành thạo các kĩ năng làm bài là nội dung chủ yếu của các tiết dạy cũng như trong sinh hoạt tổ chuyên môn. Tất cả đều nhằm mục đích dạy tốt, học tốt trong các nhà trường phổ thông.

 

doc 26 trang thuychi01 9832
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tính dân chủ hóa trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975 qua tác phẩm “Chiếc thuyên ngoài xa”, tác giả Nguyễn Minh Châu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT CẨM THUỶ 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tính dân chủ hóa trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975
 qua tác phẩm “Chiếc thuyên ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
 Người thực hiện : Vũ Tuấn Anh
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THPT Cẩm Thủy 3
 SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT..3
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SKKN..3
PHẦN 1: NỘI DUNG...... 5
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1975...5
1. Hoàn cảnh lịch sử..........5
2. Tình hình văn hoá, xã hội................6
3. Diện mạo văn xuôi Việt Nam sau năm 1975....6
CHƯƠNG 2: TÍNH DÂN CHỦ HOÁ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1975 QUA TÁC PHẨM “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU.8
1 Đề tài về cuộc sống thế sự, đời tư..8
2 Tính đa diện trong cách tiếp cận hiện thực.....9
3 Thành tựu nghệ thuật.....12
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ GIÁO ÁN CHUYÊN ĐỀ THỬ NGHIỆM : 
ÔN TẬP PHẦN VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1975 QUA TÁC PHẨM “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”...............................................13
PHẦN 2: KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN....23
TƯ LIỆU THAM KHẢO...........25
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
SGK: Sách giáo khoa
THPT: Trung học phổ thông
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
HSG: Học sinh giỏi
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
1.1.	Đọc văn là phân môn quan trọng trong chương trình Ngữ văn cùng với Làm văn và tiếng Việt. Trong cơ cấu bộ môn Ngữ văn thì đọc văn (hay đọc hiểu văn bản) có một vị trí và vai trò to lớn. Nếu tiếng Việt cung cấp cho các em vốn từ, giúp các em biết cách thức hành văn và diễn đạt thì Đọc văn rèn cho các em năng lực đọc hiểu và khả năng cảm thụ văn bản hoàn chỉnh. 
	Trong những năm gần đây, cấu trúc đề thi tốt nghiệp và đại học, mà bây giờ hợp nhất thành một kì thi chung là kì thi trung học phổ thông quốc gia (THPTQG) dần đi vào ổn định. Một đề thi sẽ có hai phần: đọc hiểu và làm văn. Trong phần làm văn sẽ có hai câu hỏi nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Như vậy, người dạy và người học muốn đạt được hiệu quả buộc phải thay đổi hình thức dạy và học sao cho đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đề thi. Dạy học sinh kiến thức đảm bảo tính hệ thống từ dễ đến khó, từ đơn giản tới phức tạp để học sinh luyện tập thành thạo các kĩ năng làm bài là nội dung chủ yếu của các tiết dạy cũng như trong sinh hoạt tổ chuyên môn. Tất cả đều nhằm mục đích dạy tốt, học tốt trong các nhà trường phổ thông.
1.2 Sau năm 1975 văn học Việt Nam có một sự chuyển mình rất mạnh mẽ. Hoàn cảnh lịch sử thay đổi cùng với những biến động trong đời sống văn hoá, xã hội buộc văn học phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Nền văn học thời chiến đã có những thành tựu đáng kể mà hậu thế không thể phủ nhận. Chính vì thế, khi ra khỏi cuộc chiến, dư âm của chiến tranh vẫn là đề tài của hầu hết những sáng tác trong khoảng một thập niên đầu. Từ năm 1986 nhất là sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, văn học đổi mới khá toàn diện, nhất là trong lĩnh vực văn xuôi. Những cây bút thời chiến như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng luôn nỗ lực đi đầu trong công cuộc cách tân nền văn xuôi theo hướng dân chủ hoá. Vượt qua cái bóng của chính mình, họ khao khát tìm kiếm thành công trong mảnh đất của đời sống hiện thực. Sau chiến tranh, một loạt vấn đề được đem ra soi xét, mổ xẻ và được nhìn nhận lại. Đây là giai đoạn văn học có nhiều đóng góp quan trọng nhưng thời lượng giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 12 cho những tác phẩm này còn rất hạn chế. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu học trong hai tiết và hai tiết đọc thêm cho hai tác phẩm “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải và “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng. Với đề tài: Tính dân chủ hoá trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975 qua tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ý tưởng của người viết là sẽ tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử, văn hoá và xã hội tạo cơ sở để rút ra những biểu hiện chung, mang tính khái quát của tinh thần dân chủ trong văn học. Từ đó, cung cấp kiến thức nền tảng giúp các em có được chiếc “chìa khoá” để tư duy và tự nghiền ngẫm những tác phẩm ra đời trong thời gian này. Để giải quyết yêu cầu đặt ra trong đề tài là đáp ứng yêu cầu dạy và học phần văn xuôi Việt Nam sau năm 1975, người viết sẽ tiến hành biên soạn tất cả những vấn đề có thể xảy ra trong đề thi THPTQG khi hỏi về các tác phẩm này. Người viết sẽ tiến hành khảo sát và thiết kế các đề bài liên quan dựa trên đặc điểm quan trọng nhất của văn học Việt Nam giai đoạn sau năm 1975 là tính dân chủ theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản, sơ lược dành cho học sinh trung bình, khá đến mức độ cao hơn là dành cho học sinh giỏi.
2. Tên sáng kiến: 
Tính dân chủ hoá trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975 qua tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Vũ Tuấn Anh
- Email: anhvt.thptcamthuy3@thanhhoa.edu.vn
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Vũ Tuấn Anh– Giáo viên trường THPT Cẩm Thủy 3
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong thực tiễn giảng dạy và học tập môn Ngữ văn lớp 12, cụ thể trong các tiết học về văn xuôi sau năm 1975.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/9/2016`	
7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 
PHẦN I: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT
VỀ VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1975
1.1. Hoàn cảnh lịch sử:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đã kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đất nước thống nhất bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển. Những thời cơ và thuận lợi để đưa đất nước ta đi lên đã đến nhưng những khó khăn và thách thức thì lại vô cùng phức tạp. Cuộc chiến tranh kéo dài khiến ruộng đất bỏ hoang nhiều, các cơ sở sản xuất và các thành phố lớn của chúng ta đều bị phá hủy, chính sách cấm vận của các thế lực thù địch, sự khủng hoảng dẫn đến tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của liên bang Xô Viết vào những năm đầu thập niên 90 đẩy đất nước ta vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Hơn nữa hậu quả của những chủ trương chính sách nặng nề như duy ý chí, chủ quan nóng vội cũng là một trong những yếu tố kiềm chế sự phát triển của đất nước sau chiến tranh. Cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc nhưng tiếng súng xâm lược vẫn nổ ra ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, máu vẫn chảy ở chiến trường Campuchia tất cả những biến cố đó đẩy nước ta vào cuộc khủng hoảng toàn diện ngày càng nặng nề. Trước tình hình đó, đất nước buộc phải tiến hành đổi mới. Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ rõ đổi mới là “nhu cầu bức thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. 
1.2 Tình hình văn hoá, xã hội:
Những biến cố về chính trị đã đẩy xã hội Việt Nam vào tình trạng nhiễu loạn kéo dài. Sau chiến tranh lạm phát mạnh, vật giá tăng cao, tham nhũng hoành hành kéo dài, cảnh sống của người dân nghèo nàn, khổ sở. Từ lâu, chiến tranh đã không còn xa lạ với đất nước và dân tộc Việt Nam nhưng chưa bao giờ hệ luỵ của nó lại dai dẳng và tàn khốc như ở cuộc chiến lần này. Cả một thế hệ khốn đốn bị thời cuộc quật lên quật xuống quá nhiều, bị lịch sử dày vò. Bước ra từ cuộc chiến ấy là những con người rời rã, tinh thần khủng hoảng, bị chấn động tình cảm nặng nề. Tâm hồn họ đã rách nát, rất khó hàn gắn và dung hoà được với thực tại Tất cả những mảnh đời, cảnh sống đó đã in hằn dấu ấn vào trong văn học, góp phần tái hiện diện mạo đời sống tinh thần dân tộc qua một giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm.
Cùng với những biến cố mạnh mẽ về lịch sử là cuộc va chạm dữ dội về văn hoá. Các trào lưu tư tưởng và triết học phương Tây không ngừng du nhập vào Việt Nam. “Công chúng đọc Francoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddegger” (Đặng Tiến, “Thơ miền Nam tiền chiến”). Sài Gòn trở thành đô thị sầm uất và huyên náo vào bậc nhất lúc bấy giờ. Mặc dù có tồn tại sự xô bồ trong cách tiếp nhận khi công chúng ham mê triết học “Ồn ào như giới trẻ mê tài tử điện ảnh, mê ca sĩ như giới mộ đạo tôn sùng cầu thủ bóng bầu dục, các võ sĩ quyền anh”. Nhưng không thể phủ nhận một điều cuộc tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ của phương Tây đã thổi bùng lên cuộc cách mạng văn hoá đầy hứng khởi. Sự hiểu biết của quần chúng, đặc biệt là của tầng lớp trí thức được nâng cao một cách rõ rệt. Được sự cổ vũ của các trào lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới cùng với bức bình phong vững chắc của văn hoá dân tộc đã tạo nên một bối cảnh văn hoá mới, thúc đẩy tinh thần sáng tạo.
 Có thể nói, văn hoá giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của nhiều khuynh hướng, sự hấp thu nhiều luồng tư tưởng nhưng trong mạch ngầm vẫn vận hành theo cơ chế hiện đại. Văn học Việt Nam lúc này đang trở mình, lột xác để thoát li khỏi cái bóng của văn hoá Trung Hoa, chuyển mình hoà nhập vào văn mạch chung của thế giới.
1.3 Diên mạo văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau năm 1975.
Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 có một sự chuyển biến rất mạnh mẽ. Nếu như trong 30 năm trước đó nền văn học cách mạng vận động theo quy tắc thời chiến. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy nhân vật trung tâm của văn học giai đoạn này là con người trong mối quan hệ với vận mệnh đất nước, với lịch sử dân tộc. Con người chủ yếu được đặt trong những biến cố chính trị, những hoạt động lớn của cách mạng và kháng chiến. Trong một không gian rộng lớn như vậy thì con người được chú trọng nhất đó là con người của quần chúng thuộc tầng lớp công nông binh, được khắc hoạ bằng bút pháp lãng mạn mang khuynh hướng sử thi đậm nét. Các nhân vật sống với thế giới của hiện tại và có ước mơ mãnh liệt vào tương lai. Lịch sử trùng khớp với hiện tại, vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật mang tầm vóc tư tưởng và ý thức chính trị. Từ sau năm 1975, văn học có sự đổi khác, chuyển mình rất mạnh mẽ. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa thể hiện ở nhiều phương diện.
1.3.1 Đổi mới quan niệm về nhà văn:
	Quan niệm về nhà văn là một nội dung quan trọng làm nên ý thức và ý nghĩa của văn chương mỗi thời. Sự chuyển biến về văn học, trước tiên biểu hiện ở sự chuyển biến trong ý thức của người cầm bút. Chức năng cao cả của văn chương được thể hiện ở quan niệm “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Văn chương nghệ thuật nói chung là để chuyên chở đạo lí, để nói chí tỏ lòng. Nhà văn hiện diện trước hết như một nhà chính trị, một nhà đạo đức hay một nhà giáo dục. Văn học không tách rời với nhiệm vụ giáo dục đạo đức và lối sống cho con người. Cuộc kháng chiến cứu nước kết thúc, văn học trở về với quỹ đạo của cuộc sống thời bình. Những sáng tác theo đường quen, lối mòn, những quy tắc của thời chiến trở nên lạ lẫm với người đọc đương thời. Công chúng ngày càng tỏ ra hờ hững, không mấy mặn mà khi đón nhận. Chính Nguyên Ngọc đã nhận ra “khoảng chân không văn học”, sự “lệch pha” giữa văn học và công chúng. Đại hội Đảng VI với chủ trương cởi trói, giải phóng nền văn nghệ, khuyến khích sự tìm tòi, khám phá và những trải nghiệm cho văn nghệ sĩ đã khiến văn học từng bước thoát khỏi sự lầm lạc ban đầu. Nhà văn ý thức được vị trí của mình trong mối quan hệ với bạn đọc. Họ không phải nhà thông thái, tài năng và biết tuốt. Họ nhận ra rằng cần tôn trọng kinh nghiệm cá nhân nhưng hoàn toàn không nên độc tôn nó. Họ chấp nhận người đọc như một đối tác để cùng tham gia bàn bạc, cùng trao đổi và thảo luận các hiện tượng nảy sinh cũng như các vấn đề của cuộc sống.
1.3.2 Đổi mới quan niệm về hiện thực:
	Nền văn học cách mạng giản đơn, nhất quán trong quan niệm về hiện thực. Hiện thực được hiểu theo nghĩa hẹp, đồng nhất với biến cố và sự kiện chính trị, lịch sử của đất nước thì văn học sau năm 1975 có sự thay đổi rõ nét. Phạm vi hiện thực được nới rộng, có những khía cạnh chưa từng được nói tới trong nền văn học giai đoạn trước đây như những mặt trái của cuộc chiến đấu, những nhọc nhằn, gian khó của con người trong cuộc mưu sinh cũng như hành trình tìm lại chính mình, tình yêu và hạnh phúc. Mặt tiêu cực, mặt trái của hiện thực, cái xấu, cái ác trong đời sống được mổ xẻ và phanh phui đến tận cùng. Trước hiện thực rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ không thể biết hết, những trải nghiệm của nhà văn trong tác phẩm chỉ là một giả thiết được đem ra trao đổi. Trong rất nhiều tác phẩm đã xuất hiện cách nhìn hiện thực đa dạng, nhiều chiều, thể hiện mối quan hệ tự do của nhà văn với hiện thực.
1.3.3 Đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của những cây bút văn xuôi sau năm 1975.
Phương thức thể hiện hiện thực trong văn xuôi sau năm 1975 được thể hiện bằng nhiều cách thức khác nhau. Trước một vấn đề, nhà văn có nhiều cách để truyền tải tới bạn đọc như nói về cái thực thông qua cái ảo, nói cái hữu lí thông qua cái phi lí, cùng với đó là các thủ pháp đa dạng, giàu hiệu quả: kì ảo, huyễn tưởng, huyền thoại, giễu nhại, trào lộng. Sự đa thanh trong giọng điệu Nhìn như vậy có thể nói, từ “viết cái gì” đến “viết thế nào” là một bước chuyển đáng kể của văn xuôi đương đại Việt Nam.
CHƯƠNG 2: TÍNH DÂN CHỦ HOÁ
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SAU 1975
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
1. Tinh thần dân chủ qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
1.1 Đề tài về cuộc sống thế sự, đời tư:
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn “Bức tranh”. Trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện “Bức tranh”, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường, là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn “mở đường tinh anh và tài năng nhất”. Ông trăn trở khám phá và kiếm tìm chất liệu cũng như nguồn cảm hứng, đề tài mới cho những sáng tác của mình. Thế giới nhân vật ông hướng tới cũng khác trước. Đó không còn là những con người mang trong mình vẻ đẹp hoàn mĩ, không tì vết như những viên ngọc quý trong những sáng tác trước năm 1975. Ở giai đoạn sau 1975, Nguyễn Minh Châu khám phá con người ở góc độ thế sự đời tư. Họ là những con người với cuộc đời và số phận rất riêng, luôn phải vật lộn trong cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn hay kiếm tìm hạnh phúc. 
Ở khía cạnh nhận thức, quan điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu rất giống với Tô Hoài khi cho rằng viết văn là quá trình nói ra sự thật cho dù đó là một sự thật không mấy dễ chịu. Thậm chí phải phá vỡ đi những thần tượng trong lòng bạn đọc. Chưa bao giờ văn học có khát vọng lớn lao là được nói ra sự thật như bấy giờ. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.
1.2 Tính đa diện trong cách tiếp cận hiện thực:
1.2.1 Phát hiện 1: Vẻ đẹp nên thơ của cảnh thuyền và biển- “Một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
Phùng là kiểu nhân vật tư tưởng, người thay Nguyễn Minh Châu phát biểu quan điểm về nghệ thuật cũng như cách nhìn hiện thực. Trong thời chiến, anh từng là người lính không tiếc sinh mạng để bảo vệ cuộc sống bình yên của con người và giữ hoà bình cho dân tộc. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh trở về cuộc sống đời thường, làm một nhiếp ảnh gia chăm sóc đời sống tinh thần, làm đẹp cho đời. Khi nhận được yêu cầu của trưởng phòng chụp một bức ảnh bổ sung vào bộ lịch xuân năm sau, Phùng đã tìm đến vùng biển miền Trung để thăm lại chiến trường xưa. Đây là cơ hội để Phùng hội ngộ với Đẩu, người đồng đội cũ mà bây giờ đang là chánh án toá án huyện. Sau mấy ngày phục kích cảnh biển, Phùng không chụp được bức ảnh nào ưng ý. Vào lúc không ngờ nhất, khi anh đang trú mưa và lúi húi thay phim bên bánh xích của một chiếc xe tăng hỏng, anh phát hiện ra cảnh đắt trời cho: “Trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”. Vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ của bức tranh cảnh vật ấy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần. Bức tranh nên thơ, hữu tình ấy như một phần thưởng cao quý dành cho người nghệ sĩ kiên trì tìm kiếm cái đẹp.
Giây phút ấy, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương. Trước cái đẹp, Phùng “bối rối”, “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”, “Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.
1.2.2 Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài- “Một câu chuyện cổ tích đầy quái đản”.
Chiêm ngưỡng chiếc thuyền ngoài xa, nó đẹp hoàn hảo, không tỳ vết. Những nó chỉ là “ánh trăng lừa dối” cảm giác của người nhìn. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ đó là câu chuyện trần trụi về sự thật cuộc đời. Nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng đằng sau cái đẹp “toàn bích”, “toàn thiện” mà anh vừa nhìn thấy trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Sự thật cuộc đời dần lộ diện. Đó là một người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, thân hình “cao lớn” với những đường nét “thô kệch”, khuôn mặt rỗ, mệt mỏi sau một đêm thức trắng để kéo lưới. Theo sau người đàn bà là gã đàn ông với tấm lựng “rộng và cong như một chiếc thuyền”, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Dường như những gì cần nói với nhau, họ đã nói cả rồi. Câm lặng, gã đàn ông trút cơn giận như lửa cháy bằng một chiếc thắt lưng cứ quật tới tấp vào lưng người đàn bà. Hắn đánh bằng tất cả giận dữ như trút nỗi uất ức và hận thù lên quân địch cùng với giọng nguyền rủa cay nghiệt và độc địa “Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Trong khi đó, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để bảo vệ cuộc sống thanh bình. Anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tinh_dan_chu_hoa_trong_van_xuoi_viet_nam_giai_doan_sau.doc