SKKN Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất trong trường THPT Trần Phú - Nga Sơn

SKKN Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất trong trường THPT Trần Phú - Nga Sơn

Dưới những mái trường THPT, sự xuất hiện học sinh cá biệt là một vấn đề nhức nhối và cấp thiết, mà các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo - những người ươm mầm xanh cho đất nước luôn luôn phải trăn trở và khắc khoải làm thế nào để uốn nắn học sinh của mình từ cá biệt trở thành những học trò ngoan, giỏi, có ý thức lành mạnh trong học tập cũng như hình thành nhân cách của mình. Và đây cũng chính là vấn đề mà ngành giáo dục đang quan tâm.

 Là một giáo viên đã 18 năm công tác, giảng dạy môn Giáo dục thể chất ở nhà trường THPT Trần Phú – Nga Sơn, khi trực tiếp được giảng dạy và gần gũi các em học sinh, cụ thể là các em học sinh của các lớp mà tôi đang trực tiếp giảng dạy ở trường THPT Trần Phú - Nga Sơn, nhìn những gương mặt còn ngây thơ chưa vướng phải những va đập của cuộc sống tôi luôn nghĩ rằng trong tâm hồn các em bao giờ cũng trong sáng và lành mạnh, làm sao có thể có những học trò cá biệt, bởi lứa tuổi học đường là lứa tuổi đẹp nhất. Vậy mà ẩn sau cái nhìn chung ấy, lại có những em đang vô tình đánh mất đi những năm tháng đẹp nhất của tuổi học trò. Nguyên nhân ấy từ đâu và dùng biện pháp gì cho phù hợp để khắc phục những học sinh cá biệt là trách nhiệm của những người làm giáo dục nói chung và các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục thể chất nói riêng.

 

doc 19 trang thuychi01 5701
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất trong trường THPT Trần Phú - Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
MỤC LỤC...............................................................................
Trang
1
I
MỞ ĐẦU.................................................................................
2
1
Lí do chọn đề tài.......................................................................
2
2
 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................
3
3
Đối tượng và khách thể nghiên cứu..........................................
3
4
 Giả thiết khoa học...............................................................
3
5
 Phạm vi đề tài .....................................................................
4
6
 Phương pháp nghiên cứu đề tài...........................................
4
II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ..................................................
5
1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu đề tài..............................
5
1.1
Lý luận về học sinh cá biệt ....................................................
5
1.2
Lý luận về nội dung, phương pháp.....................................
6
2
Thực trạng và nguyên nhân ..................................................
7
2.1
Thực trạng:............................................................................
7
2.2
 Nguyên nhân ......................................................................
10
3
 Các biện pháp tác động, giáo dục........................................
11
3.1
Các biện pháp tác động........................................................
11
3.2
Các biện pháp giáo dục.........................................................
12
III
 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..............................................
13
1 
Kết luận....................................................................................
13
2
Kiến nghị..................................................................................
15
 I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
	Dưới những mái trường THPT, sự xuất hiện học sinh cá biệt là một vấn đề nhức nhối và cấp thiết, mà các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo - những người ươm mầm xanh cho đất nước luôn luôn phải trăn trở và khắc khoải làm thế nào để uốn nắn học sinh của mình từ cá biệt trở thành những học trò ngoan, giỏi, có ý thức lành mạnh trong học tập cũng như hình thành nhân cách của mình. Và đây cũng chính là vấn đề mà ngành giáo dục đang quan tâm.
	Là một giáo viên đã 18 năm công tác, giảng dạy môn Giáo dục thể chất ở nhà trường THPT Trần Phú – Nga Sơn, khi trực tiếp được giảng dạy và gần gũi các em học sinh, cụ thể là các em học sinh của các lớp mà tôi đang trực tiếp giảng dạy ở trường THPT Trần Phú - Nga Sơn, nhìn những gương mặt còn ngây thơ chưa vướng phải những va đập của cuộc sống tôi luôn nghĩ rằng trong tâm hồn các em bao giờ cũng trong sáng và lành mạnh, làm sao có thể có những học trò cá biệt, bởi lứa tuổi học đường là lứa tuổi đẹp nhất. Vậy mà ẩn sau cái nhìn chung ấy, lại có những em đang vô tình đánh mất đi những năm tháng đẹp nhất của tuổi học trò. Nguyên nhân ấy từ đâu và dùng biện pháp gì cho phù hợp để khắc phục những học sinh cá biệt là trách nhiệm của những người làm giáo dục nói chung và các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục thể chất nói riêng.
	Bản thân tôi qua 18 năm trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục thể chất luôn được gần gũi yêu thương các em học sinh và được chứng kiến thực trạng hiện tượng học sinh cá biệt, tôi thực sự day dứt và trăn trở. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm làm như thế nào để trả lại cho các em lứa tuổi đẹp nhất của mình và các tiết học thực hành ngoài sân ấy luôn đem lại cho các em thích thú, rèn luyện tính kiên nhẫn, chịu khó vươn lên. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài này “ Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất trong trường THPT Trần Phú - Nga Sơn”. Bằng sự nhiệt huyết của nghề nghiệp cộng với tấm lòng yêu thương các em học sinh, tôi huy vọng rằng sẽ tìm ra được nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá biệt ở các em học sinh, để từ đó rút ra cơ sở thực tiễn cho giải pháp sư phạm trong công tác giảng dạy và giáo dục các em nhất là giáo dục các em về kỹ năng sống, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục những học sinh cá biệt, đưa các em trở về với tư tưởng lành mạnh trong tiến trình hoàn thiện bản thân.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu.
	- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh cá biệt
	- Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt không thích học các giờ học thực hành ở ngoài rân bãi.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
	- Nghiên cứu để tạo ra cơ sở thực tiễn trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất
	- Nghiên cứu để xây dựng những phương pháp sư phạm phù hợp, nâng cao hiệu qủa trong các giờ học thực hành của môn học.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng. 
	Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất cụ thể là:
	- Em Nguyễn Minh Công lớp 10E nay là 12E
	- Em Nguyễn Thị Giang 10D nay là 12D
	- Em Trần Chí Kiên 10E nay là 12E
3.2. Khách thể nghiên cứu.
	- Thông qua gia đình các em
	- Thông qua thầy cô giáo chủ nhiệm
	- Thông qua tập thể lớp
	- Thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất
4. Giả thiết khoa học.
	Hiện tượng học sinh cá biệt là những học sinh không lành mạnh về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, không có ý thức học tập thường xuyên quậy phá trong các giờ học, bỏ học, bỏ tiết.... Đây là vấn đề luôn làm cho các nhà trường, thầy cô phải trăn trở. Cho nên để giáo dục được những học sinh cá biệt cần phải tìm hiểu nguyên nhân đẫn đến thực trạng cá biệt, không thích học các giờ học thực hành ngoài trời. 
	Vì vậy nếu tìm được nguyên nhân thì sẽ có cơ sở thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục và giảng dạy học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất.
5. Phạm vi đề tài.
	Tìm hiểu, giáo dục “Học sinh cá biệt” là một quá trình tiếp cận tìm hiểu và nghiên cứu đối tượng. Nhưng đề tài tập trung vào giải quyết 2 vấn đề chính:
	Một là: Xây dựng cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất
	Hai là: Điều tra thực trạng, những nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt không thích học các giờ thực hành
	Phạm vi của đề tài này cũng chính là cấu trúc của đề tài, là nội dung chính gồm 3 chương:
	Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
	Chương 2: Những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt ở các giờ học thực hành ngoài trời
	Chương 3: Những giải pháp giáo dục
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
	Để hiểu và nghiên cứu học sinh cá biệt, chúng ta phải dùng những phương pháp sau đây:
a. Phương pháp quan sát.
	- Quan sát thực trạng của học sinh cá biệt
	+ Biểu hiện trong học tập, các giờ học thực hành
	+ Biểu hiện đối với bạn bè, thầy cô
	+ Biểu hiện trong quan hệ gia đình, xã hội
b. Phương pháp hỏi đáp.
	- Tiếp cận thật gần gũi rồi tìm cách hỏi thăm đối tượng
c. Phương pháp điều tra.
	+ Thông qua chính bản thân đối tượng
	+ Thông qua các thầy cô giáo chủ nhiệm
	+ Thông qua các bạn thân trong lớp
	+ Thông qua việc tiếp cận, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình
	+ Thông qua các giờ học thực hành ngoài sân bãi
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu đề tài
1.1. Lý luận về học sinh cá biệt nói chung và học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành nói riêng.
a. Khái niệm hiện tượng học sinh cá biệt.
	Nói đến hiện tượng học sinh cá biệt là một hiện tượng đặc biệt ở học sinh. Hiện tượng học sinh cá biệt là học sinh vi phạm các chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã hội, biểu hiện ở phẩm chất đạo đức và học lực của học sinh
	Nói đến học sinh cá biệt là thường liên hệ đến chuẩn mực chung, mức độ vi phạm các chuẩn mực đó và nó là cái đặc biệt, là cái khác của cộng đồng học sinh.
b. Khái niệm học sinh cá biệt ở các giờ dạy thực hành.
	Hiện tượng học sinh cá biệt ở các tiết dạy thực hành môn Giáo dục thể chất là hiện tượng học sinh hư không phù hợp với chuẩn mực đạo đức và chẩn mực xã hội, có biểu hiện như: Không chịu khó học, thường kiến tập hoặc gây gổ trong quá trình học, trêu ngẹo các bạn, giao tiếp không lịch sự hoặc hay bỏ tiết...
	Hiện tượng học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất là kết quả giáo dục rèn luyện 12 năm trên nghế nhà trường cũng như giáo dục ở nhà trường, gia đình, cộng đồng, nơi ở và sự giáo dục, rèn luyện của bản thân học sinh đó.
	Hiện tượng học sinh cá biệt ở các giờ thực hành có 3 đặc trưng
	+ Do sự quá nương chiều của gia đình
	+ Mức độ hư hỏng chưa đến mức nghiêm trọng
	+ Không thích học hoặc ngại các giờ thực hành 
c. Lý luận về các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt.
	Hiện tượng học sinh cá biệt chính là hiện tượng phát triển sai lệch về bản chất, nhân cách của học sinh đối với chuẩn mực chung.
	Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến làm cho học sinh trở thành cá biệt. Do môi trường xã hội, do sự sai lầm của gia đình tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh hư ở trường và nguyên nhân do ảnh hưởng của những người phạm tội có tác động qua lại tới học sinh
d. Sự cần thiết phải giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ thực hành
	Xuất phát từ sự nhận thức quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh ở giai đoạn trong nhà trường THPT là giai đoạn quan trọng nhất. Bởi vì ở giai đoạn này tự hoàn thiện nhân cách của học sinh và vai trò trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn trong việc giáo dục học sinh cá biệt trở nên cấp thiết trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt
1.2. Lý luận về nội dung, phương pháp và các con đường giáo dục học sinh cá biệt.
a. Nội dung giáo dục học sinh cá biệt.
	- Giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ thực hành môn Giáo dục thể chất là giáo viên phải có thái độ, tình cảm đúng đắn với những học sinh cá biệt trong giờ học nhất là các giờ học như nhảy cao, nhày xa, chạy bền...
	- Bằng lý luận thực tiễn người giáo viên cần cung cấp cho học sinh cá biệt những cách thức biện pháp để học tập, rèn luyện có kết quả tốt
	- Ngăn chặn những ảnh hưởng xấu, tách khỏi những học sinh hư, những tệ nạn xã hội và những lối sống không lành mạnh
	- Kết hợp đạo đức với dạy học và rèn luyện để nhằm giáo dục đạt chất lượng cao.
b. Phương pháp và các con đường giáo dục học sinh cá biệt.
	 Phương pháp 
	Giáo dục học sinh cá biệt là nhiệm vụ luôn đặt ra cho người giáo viên trước hết và quan trọng nhất là làm cho học sinh hiểu được quan điểm của mình là một quan điểm giáo dục chứ không phải là quan điểm ngoài giáo dục. Điều quan trọng nhất đối với việc giáo dục học sinh cá biệt là bằng cách khuyết phục. Phương pháp trừng phạt là phương pháp bắt buộc cuối cùng, chúng ta cần phải sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
	+ Phương pháp tác động cá biệt
	+ Phương pháp khen thưởng
	+ Phương pháp tránh phạt
	+ Phương pháp tác động song song ( Giáo dục tập thể)
	+ Phương pháp “ Bùng nổ sư phạm”
	Ngoài ra người giáo viên bộ môn cần phải tìm hiểu và sáng tạo, tạo ra những phương pháp thích hợp và hiệu quả hơn trong việc giáo dục học sinh cá biệt, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các giờ dạy thực hành
	 Giải pháp
 	Trong giáo dục học sinh cá biệt người giáo viên bộ môn cần sử dụng các giải pháp sau:
	+ Điều chỉnh hành vi cụ thể
	+ Nêu yêu cầu trực tiếp hoặc gián tiếp
	+ Thuyết phục và hạn chế giải pháp trừng phạt
	+ Động viên, khen thưởng kịp thời
	+ Tiến hành thường xuyên
2. Thực trạng và nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá biệt trong các giờ học thực hành môn Giáo dục thể chất.
2.1. Thực trạng: Tôi rất vinh dự khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh khoa Giáo dục thể chất, ra trường tôi được phân công giảng dạy tại trường THPT Bán công Trần Phú nay là Trường THPT Trần Phú - Nga Sơn. Đây là quê hương của tôi và cũng là trường vừa mới được thành lập một trường Bán công đầu tiên trong huyện Nga Sơn đây cũng là mô hình mới, buổi đầu thành lập trường chỉ có 10 phòng học cấp 4 , 1 khu hiệu bộ với 8 giáo viên cơ hữu, 2 Đ/c lãnh đạo và 1 kế toán số còn lại chủ yếu là các thầy cô bên trường THPT Ba Đình sang thỉnh giảng, buổi đầu chỉ có hơn 4 trăm học sinh, chủ yếu là học sinh thi không đậu vào các trường như THPT Ba Đình và trường THPT Mai Anh Tuấn, nên chất lượng không được cao dẫn tới ý thức đạo đức của các em cũng kém. Song vài năm trở lại đây nhà trường đã từng bước nâng cao chất lượng dạy và học, cơ sở vật chất ngày càng được trang bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu dạy và học của các em học sinh. Trong 18 năm ra trường tôi được phân công giảng dạy môn Giáo dục thể chất đây là môn đặc thù hầu hết các em học sinh coi đây chỉ là môn phụ nên các giờ học thực hành ngoài sân bãi các em đều không thích học mà chủ yếu học các môn văn hoá, đặc biệt là các em học sinh cá biệt và một số học sinh nữ, song với tấm lòng yêu ngành, yêu nghề nhất là các em học sinh, tôi thiết nghĩ rằng mình phải làm việc thật tốt để xứng đáng không chỉ là một giáo viên giỏi mà còn giáo dục được nhiều học sinh cá biệt, giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh, trong 18 năm qua tôi luôn trăn trở tìm ra các biện pháp, làm sao để cho các em nhận thức đúng đắn về môn học, không chỉ tập trung vào các môn văn hoá mà còn các môn khác đặc biệt là môn Giáo dục thể chất để các em phát triển toàn diện cả về Đức, trí, thể, mỹ và nghề nghiệp và vào năm 2010 nhà trường được chuyển đổi từ trường Bán công sang trường công lập và cũng là năm mà tôi bắt đầu vào tìm hiểu học sinh cá biệt ở các lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy, qua các buổi giảng dạy thực hành, thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp và cán sự lớp tôi đã thống kê được những học sinh cá biệt ở các lớp như sau:
Năm học: 2015 - 2016
TT
Họ và tên HS
Lớp
Thực trạng
Học lực
Hạnh kiểm
Hoàn cảnh gia đình
1
Nguyễn Minh Công
10E
Bỏ học thường xuyên, hay gây gổ với bạn bè, lười tập luyện, thường xuyên đua đòi với bạn bề...
Điểm TB 
 5,3
Trung bình
Bố bán thuốc tay, mẹ làm trong bệnh viện Đa khoa huyện
2
Trần Chí Kiên
10E
Thường xuyên bỏ học, hay gây gổ với các bạn trong và ngoài lớp, trang phục, nói năng không phù hợp ...
Điểm TB 5,1
Trung bình
Bố làm nghề tự do, mẹ làm nông nghiệp 
3
Nguyễn Thị Giang
10D
Hay gây gổ với bạn bè, nói năng thô tục, thường xuyên bỏ học, kiến tập...
Điểm TB 5,7
Trung bình
Bố làm Thủy Lợi, mẹlàm công ty may
	Trong 3 em học sinh mà tôi đã thống kê trên, mỗi em có một hoàn cảnh và thực trạng khác nhau đối với em Nguyễn Minh Công và em Nguyễn Thị Giang thì gia đình đều khá giả, bố là công nhân viên chức nhà nước có điều kiện cả về kinh tế lẫn tình cảm dành cho các em, nhưng các em lại vẫn là học sinh cá biệt.
	Sở dĩ tôi thống kê như trên là để so sánh và làm nổi bật học sinh cá biệt em Trần Chí Kiên bởi hoàn cảnh gia đình và bản thân em hết sức cá biệt, gia đình em Kiên có 5 anh chị em và Kiên là đứa con trai duy nhất của gia đình, các chị Kiên đều không có công ăn việc làm, chỉ tập trung vào vài sào ruộng.
	Đặc điểm của em học sinh cá biệt Trần Chí Kiên là gia đình em rất khó khăn so với các bạn trong lớp cả về kinh tế lẫn tình cảm, bản thân em là người con thứ út trong gia đình. 
	Kiên là 1 đứa trẻ luôn được nuông chiều từ nhỏ, bà nội và bố mẹ của em chỉ có một đứa cháu trai cho nên bao tình cảm yêu thương đều dành cả cho Kiên và luôn mong Kiên sớm trở thành 1 người cháu, người con hiếu thảo của gia đình cũng chính từ điều này mà ở Kiên đã xuất hiện tính ỷ lại, lười nhác. Điều quan trọng nữa là bố của Kiên đã không có trách nhiệm với gia đình mà còn lao vào con đường rượu chè, bài bạc bỏ bê vợ con, làm cho Kiên không còn niềm tin vào người cha của mình và đã lao vào quan hệ với những bạn bè xấu.
	Trong học tập thì lực học của em ngày càng sa sút nghiêm trọng. Trong những năm học cấp 2, Kiên luôn đạt được học lực khá, không có những hành vi xấu nhưng khi bước vào cấp 3 thì học lực ngày càng giảm sút nghiêm trọng, đạo đức thì xếp loại chỉ ở mức trung bình ngoài ra còn có những biểu hiện trốn học, bỏ giờ, gây gổ đánh nhau... Có một lần cuối học kỳ I năm học lớp 11 Kiên đã bỏ gia đình đi cùng một số bạn bè xấu ra Hà Nội nhưng do ra không chịu được công việc em lại về và được các thầy cô, bạn bè trong lớp khuyên và động viên đi học tiếp, có những buổi đến giờ chỉ ngồi nghịch, quậy phá bạn bè trong giờ học, không chịu khó luyện tập, đặt biệt là các động tác khó, mới và môn chạy bền khi các bạn nhắc thì nổi khùng, văng tục và còn hăm dọa bạn bè. Do được chiều chuộng nên Kiên vẫn không nghe lời cô giáo chủ nhiệm. Giấy mời phụ huynh đến trường thì không bao giờ mang về nhà, sổ liên lạc giữa nhà trường với gia đình thì luôn mượn người viết hộ, thông tin trên edu thì cho cô giáo số khác. Vì vậy mà gia đình không nắm bắt được thực trạng của em ở trường và ngoài xã hội như thế nào? Nhất là bố của Kiên, sống trong một gia đình không có tình cảm nên không còn thời gian để theo dõi việc làm hàng ngày của Kiên.
	Trong lớp bạn bè không hiểu được hoàn cảnh của Kiên nên cố tình xa lánh và còn có thái độ coi thường em, điều này càng làm em nhận thức rõ hơn bản thân mình là người thừa. Trong khi ở lứa tuổi này tâm hồn các em rất dễ bị thổn thương, tính tự ái của tuổi mới lớn nhất là đối với học sinh như Kiên dễ dẫn em đi đến những điều nguy hiểm.
	Đối với giáo viên chủ nhiệm thì chưa làm hết trách nhiệm đối với học sinh của mình, tức là luôn cho qua hoặc quát nạt những biểu hiện xấu của các em.
	Ở lứa tuổi này các em rất cần sự an ủi, vỗ về, uốn nắn mềm dẻo chứ không ưa dùng những biện pháp khắc khe.
	Tóm lại đối với hiện tượng học sinh cá biệt mà cụ thể là em Trần Chí Kiên đáng trách rất nhiều nhưng chưa thể đi đến mức quá nghiêm trọng nếu như luôn được các thầy cô và bạn bè quan tâm nhiều hơn.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh cá biệt ở các giờ học thực hành
	Xét về mặt chủ quan và khách quan thì có những nguyên nhân chính sau đây:
a. Về phía gia đình.
	Một đứa trẻ muốn có nhân cách tốt thì phải có sự giáo dục chặt chẽ của gia đình.
	Từ nhỏ Kiên là một đứa trẻ biết vưng lời bố mẹ, nhưng đến năm học cấp 3, khi em bắt đầu hiểu về cuộc sống xã hội, thì cũng là lúc mà gia đình em rơi vào hoàn cảnh éo le. Bố nghiện rượu chè, bài bạc, còn mẹ thì đứng giữa biến động của gia đình. Sống trong hoàn cảnh gia đình bị đảo lộn, em đã nhận thức được rằng gia đình không còn là chỗ dựa cho em nữa, và từ đó em bắt đầu lao vào cuộc giao lưu với những bạn bè xấu ngoài xã hội, xuất hiện những hành vi không lành mạnh. Có những buổi em trốn học đi tụ tập cùng một số bạn bè khác ngồi ngoài quán cho đến tối mới về, có hôm em lên trường thấy mặt sưng hỏi em trả lời là do đánh nhau với 1 số thanh niên nam ở cùng xã, khi bạn bè nhìn thấy và muốn khuyên bảo thì em cố tình lẩn tránh và coi như không có chuyện gì xảy ra. Mẹ của Kiên cũng nhiều lần nhận thấy được ở con mình những biểu hiện không tốt, nhưng chính bà cũng đang hoang mang trước hoàn cảnh của gia đình chính điều đó đã làm em trở thành một đứa trẻ tự do hơn trong cuộc sống của mình mà đến cách sống hư hỏng này.
b. Hoàn cảnh xã hội.
	Trong điều kiện xã hội phát triển cộng với sự giao lưu văn hoá rộng rãi đã đem lại cả hai mặt tốt và xấu cho con người. Những tệ nạn xã hội đã lan tràn và len lỏi vào học đường đặc biệt môi trường ở đây là trung gian của các tệ nạn xã hội. Hoàn cảnh xã hội đó đã tác động một phần không nhỏ tới sự hình thành tới tính cá biệt của các em.
c. Bản thân tự giáo dục kém.
	Trong quá trình giáo dục, sự tự giáo dục ở mỗi học sinh đóng vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của người học sinh tự giáo dục khác hẳn với sự ảnh hưởng của môi trường cộng đồng xã hội.
	Nếu như giáo dục không tích cực thì hiệu quả giáo dục cũng không đạt kết quả khả quan.
	Sự tự giáo dục được hiểu là một quá trình tích cực, chuyên cần, tự ý thức được mình trong mọi lĩnh vực giáo dục, cũng như nhận thức của mỗi học sinh. Người ta thường cho rằng những thói hư tật xấu của các em cá biệt là bắt nguồn ông, bà. Công và Giang thì không phải như vậy bởi bố mẹ của các em đều là những gia đình luôn quan tâm tới vấn đề giáo dục cho con cái, nhưng Công và Giang vẫn là những học sinh cá biệt trong nhà trường. Riêng em Kiên nhà chỉ có hai bố 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tim_hieu_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_thong_qua_cac_gio_ho.doc