SKKN Tích hợp giáo dục phát triển môi trường bền vững vào tiết 69 – bài 45 “Hợp chất có oxi của lưu huỳnh” SGK hóa học lớp 10 nâng cao
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội có quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên. Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,.Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung (trong đó có cả tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững kinh tế -xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương. Mục tiêu của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa của con người và tự nhiên. Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi trường. Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững.
Hiện nay, môi trường Việt Nam đã xuống cấp, nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy, việc bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Nhìn chung, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có lúc, có nơi đã đến mức báo động. Sự ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng và nó để lại nhiều hậu quả xấu tác động trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người , sự sinh trưởng, phát triển của động thực vật. Mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau.
I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội có quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên. Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,...Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung (trong đó có cả tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững kinh tế -xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương. Mục tiêu của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa của con người và tự nhiên. Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi trường. Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững. Hiện nay, môi trường Việt Nam đã xuống cấp, nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy, việc bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Nhìn chung, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có lúc, có nơi đã đến mức báo động. Sự ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng và nó để lại nhiều hậu quả xấu tác động trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người , sự sinh trưởng, phát triển của động thực vật. Mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau. Với tất cả những yếu tố đó, thiết nghĩ việc đưa giáo dục bảo vệ và phát triển môi trường bền vững vào học đường là việc làm tối cần thiết. Phải dạy cho những lớp người trẻ trung, năng động là lực lượng đông đảo trong xã hội Việt Nam kiến thức về phát triển môi trường, từ đó hình thành ý thức về bảo vệ và phát triển môi trường bền vững cho mọi người trong xã hội nói chung. Trong chương trình giáo khoa THPT thì tôi nhận thấy môn Hóa Học là môn có rất nhiều cơ hội để lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ và phát triển môi trường bền vững. Xuất phát từ tư tưởng đó, tôi đã chọn đề tài: Tích hợp giáo dục phát triển môi trường bền vững vào tiết 69– bài 45 “Hợp chất có oxi của lưu huỳnh” SGK Hóa học lớp 10 nâng cao. 2. Mục đích đề tài: Giáo dục phát triển môi trường bền vững góp phần hình thành nhân cách người lao động mới, người chủ tương lai của đất nước – người lao động, người chủ có thái độ thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế hài hòa với việc bảo vệ môi trường, bảo đảm nhu cầu của hôm nay mà không phương hại đến các thế hệ mai sau. Giáo dục sự phát triển môi trường bền vững là vấn đề có tính chiến lược của mỗi quốc gia và toàn cầu. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa nội dung giáo dục bảo vệ và phát triển môi trường bền vững lồng ghép vào tiết 69 – bài 45 “Hợp chất có oxi của lưu huỳnh”. Bằng cách này, bài giảng hóa học sẽ dễ dàng đạt được yêu cầu là có liên hệ thực tiễn, vừa giáo dục được ý thức bảo vệ và phát triển môi trường bền vững cho học sinh. Bên cạnh đó bài giảng có kết hợp kiến thức về thực tế sẽ tăng hứng thú học tập cho học sinh, giúp tiết học bớt căng thẳng và học sinh sẽ yêu thích môn học hơn. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu bài giảng cụ thể tiết 69- bài 45 “Hợp chất có oxi của lưu huỳnh”. - Môi trường với sự phát triển bền vững. - Ý nghĩa của việc bảo vệ và phát triển môi trường bền vững. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục. - Phương pháp hoạt động thực tiễn như hoạt động Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về bảo vệ và phát triển môi trường bền vững: vệ sinh trường, lớp; tham gia chiến dịch truyền thông, tuyên truyền bảo vệ môi trường ở nhà trường và địa phương. - Phương pháp điều tra, khảo sát, nghiên cứu tình hình địa phương. 5. Đóng góp của đề tài: Cung cấp những thông tin mới nhất, gần nhất về những tác hại mà ô nhiễm môi trường gây ra, đồng thời giáo dục cho học sinh các biện pháp bảo vệ và phát triển bền vững môi trường từ đó lồng ghép việc giáo dục bảo vệ và phát triển môi trường bền vững trong giảng dạy môn Hóa học. Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn hoá học THPT hình thành cho học sinh tình yêu thiên nhiên, sống hoà đồng với thiên nhiên, quan tâm đến thế giới xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh. Đích quan trọng của giáo dục bảo vệ và phát triển môi trường bền vững không chỉ làm cho mọi người hiểu rõ sự cần thiết phải bảo vệ môi trường mà quan trọng là phải có thói quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự với môi trường. II. NỘI DUNG A. Cơ sở lý luận của đề tài: Môi trường cho ta không khí để thở, đất ở để xây dựng nhà cửa, chăn nuôi, cung cấp các loại tài nguyên khoáng sản phục vụ cho sản xuất và cuộc sống hiện đại của con người. Tuy nhiên những hiểm hoạ suy thoái môi trường đang ngày càng đe doạ cuộc sống của con người. Bảo vệ môi trường (BVMT) chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững, giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để KT-XH phát triển. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Đảng và nhà nước ta sớm nhận thức tầm quan trọng của vấn đề BVMT và phát triển bền vững. Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đó là “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”, đặt tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ IX (2001) và Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 đã xác định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT. Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kì họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, được Chủ tịch nước kí Lệnh số 29/2005/LCTN và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 thay thế luật bảo vệ môi trường năm 1993. Luật quy định về giáo dục bảo vệ môi trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường: [1]. Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 41/NQ-TƯ về “Bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết xác định quan điểm “ Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là yếu tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”. Với phương châm “lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính”, Nghị quyết coi tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức là giải pháp số 1 trong 7 giải pháp bảo vệ môi trường của nước ta và chủ trương: “Đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân, tăng dần thời lượng và tiến tới hình thành môn học chính khoá đối với các cấp học phổ thông”. [2]. (trích Nghị quyết 41/NQ-TƯ) Ngày 17/10/2001, Thủ tướng Chính phủ kí Quyết định 1363/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” với mục tiêu: “Giáo dục học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường; có kiến thức về môi trường để tự giác thực hiện bảo vệ môi trường”. [3]. Ngày 02/12/2003, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 256/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xác định bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời của chiến lược kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng đảm bảo phát triển bền vững đất nước. Chiến lược đã đưa ra 8 giải pháp, trong đó giải pháp đầu tiên là “Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường”. [4]. Cụ thể hoá và triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 31/01/2005, Bộ trưỏng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị sô 02/2005/CT-BGD-ĐT “Về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”. Chỉ thị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến năm 2020 cho giáo dục phổ thông là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường bằng hình thức phù hợp trong các môn học và thông qua các hoạt động ngoại khoá, ngoài giờ lên lớp, xây dựng mô hình nhà trường xanh – sạch – đẹp phù hợp với các vùng miền [5]. Cam kết về BVMT và phát triển bền vững trên cấp độ quốc tế, ngày 11/06/1992 Việt Nam đã ký Công ước khí hậu, phê chuẩn ngày 16/11/1994; và ký Nghị định thư Kyoto ngày 03/12/1998, phê chuẩn ngày 25/09/2002. [6]. * Năm 2015 đánh dấu một sự kiện lớn của Việt Nam, đó là việc tham gia Hội nghị thượng đỉnh Biến đổi khí hậu COP 21 tại Paris Pháp. Hiệp định Paris bao gồm 12 trang, 29 điều tập trung vào giải quyết toàn diện các nội dung của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, thay thế Nghị định thư Kyoto từ năm 2020. Hiệp định tái khẳng định mục tiêu khống chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới 2oC và kêu gọi các quốc gia nỗ lực để hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu đến 1,5oC. [7]. Các văn bản nêu trên đã khẳng định Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của công tác BVMT trong sự nghiệp phát triển bền vững quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. BVMT, phát triển bền vững lấy con người làm trung tâm đã trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong định hướng chiến lược phát triển KT-XH Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Đồng thời qua đó cũng cho thấy tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường nhằm nâng cao nhận thức, ý thức về môi trường cho công dân nói chung và cho học sinh nói riêng. B. Thực trạng của vấn đề Xét vệ độ an toàn của môi trường, Việt Nam đứng cuối bảng trong số 8 nước ASEAN, và xếp thứ 98 trên tổng số 117 nước đang phát triển. Tại Việt Nam đã xuất hiện mưa axit lần đầu ở bán đảo Cà Mau năm 1998. Hiện nay tình trạng mưa axit xuất hiện tại nước ta tăng lên đáng kể tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và những khu công nghiệp, khu chế xuất tại Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Đà Nẵng, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh...Tại khu vực thành phố Cần Thơ, tần suất xuất hiện mưa axit trung bình trong mười năm đã lên đến 58%. Ở Tây Ninh tần suất xuất hiện mưa axit trung bình trong mười năm cũng ở con số 57,9%. [7]. Mưa axit là hiện tượng nước mưa có độ chua (pH < 5,6), mưa axit còn được biết tới như sự lắng đọng axit, được tạo ra bởi lượng khí thải SO2 và NOx từ các nhà máy điện, ô tô và các trung tâm công nghiệp. Mưa axit cũng có thể bắt nguồn từ các sự cố tự nhiên như những vụ phun trào của núi lửa, cháy rừng hay sấm sét khi mà khí SO2 và NOx kết hợp với nước trong khí quyển và tạo thành axit dưới 2 dạng: khô như khí gas và ướt như mưa axit, tuyết, sương mù. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng mưa axit bắt nguồn từ các hoạt động của con người, khí thải từ các nhà máy và các phương tiện giao thông, chặt phá rừng, rác thải ... Khói bụi mù mịt của núi lửa phun trào là một trong Khí thải từ các phương tiện giao thông những nguyên nhân gây ra mưa axit Khí thải từ các nhà máy công nghiệp Chặt phá rừng Cháy rừng Rác thải quá nhiều cũng là một nguyên nhân gây ra mưa axit Nước mưa này trở nên độc hơn đối với cây cỏ, vật nuôi và cả con người nữa, bởi vì nó có độ chua khá lớn làm hòa tan một số bụi kim loại và oxit kim loại như oxit chì, có sẵn trong không khí. Mưa Axit rửa trôi hết những chất dinh dưỡng trong đất, làm cho đất đai trở nên khô cằn, cây cối kém phát triển. Thông là loài cây đặc biệt nhạy cảm với mưa axit. Mưa axit làm cho đất đai trở nên cằn cỗi, thậm chí còn gây ra hiện tượng sa mạc hóa Mưa axit ảnh hưởng xấu tới các thủy vực (ao, hồ). Các dòng chảy do mưa axit đổ vào hồ, ao sẽ làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn, biến hồ, ao trở thành các vùng chết. Mưa axit ảnh hưởng đến hệ thực vật trên trái đất, làm cho khả năng quang hợp của cây giảm, cho năng suất thấp. Mưa axit còn phá hủy các vật liệu làm bằng kim loại như sắt, đồng, kẽm,... làm giảm tuổi thọ các công trình xây dựng, làm lở loét bề mặt bằng đá của các công trình xây dựng, di tích lịch sử. Mưa axít tác động lên cột chính của nhà tưởng niệm Mưa axít tác động lên bức tượng tại thủ đô Viên - Áo các tổng thống Mỹ Mưa axit gây ảnh hưởng đến hệ thống khí quyển. Nó góp phần gây hiệu ứng nhà kính làm gia tăng nhiệt độ ở hạ tầng khí quyển và làm biến đổi khí hậu. Nó gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu. Băng ở hai cực trái đất tan, nước biển dâng làm chìm ngập các vùng thấp và các hải đảo. Ngoài ra hạn hán, lũ lụt sẽ thường xuyên hơn, mưa bão dữ dội hơn. Sự nóng lên của Trái Đất làm băng tan Hiện tượng lũ lụt gia tăng đã dẫn đến mực nước biển dâng cao Bản đồ xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long, một trong ba đồng bằng (Ai Cập, Băng-la-đét) trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng. Theo dự báo đến năm 2050, diện tích ngập lụt có thể chiếm tới 89% diện tích đồng bằng, tăng 20% so với diện tích ngập lũ năm 2000. Bên cạnh đó xâm nhập mặn đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, phát triển kinh tế vùng đồng bằng. Hầu hết tất cả, mưa axit ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Nó có thể làm hại chúng ta thông qua không khí và ô nhiễm đất. Đối với con người các hạt bụi axit khô do mưa axit tạo ra có thể là nguyên nhân gây nên những căn bệnh về hen suyễn, viêm phế quản, bệnh hô hấp và bệnh tim. Hậu quả không chỉ xảy ra ở trước mắt mà còn để lại hậu quả lâu dài bởi mưa axit dẫn đến sự hình thành các hợp chất độc hại bằng cách phản ứng với các hợp chất hóa học tự nhiên. Một khi những hợp chất độc hại được hình thành sẽ thấm vào nước uống và thâm nhập vào chuỗi thực phẩm. Thực phẩm bị ô nhiễm này có thể gây tổn hại các dây thần kinh ở trẻ em, hoặc dẫn đến tổn thương não nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Các nhà khoa học nghi ngờ rằng nhôm, một trong những kim loại bị ảnh hưởng bởi mưa axit, có liên quan đến bệnh Alzheimer. Để đảm bảo có một tương lai an toàn hơn, phồn vinh hơn, chúng ta chỉ có một con đường là giải quyết một cách cân đối các vấn đề về môi trường và phát triển. Cần phát triển bền vững về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Để đưa nền kinh tế phát triển thịnh vượng đi đôi với bền vững môi trường và hòa nhập xã hội trong thời gian tới, Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh, bền vững, tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng 4.0. C. Giải pháp thực hiện: Hiện nay, các nguồn tài nguyên có hạn, đang bị cạn kiệt (khoáng sản, sinh vật). Môi trường sinh thái đang ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái, sự nóng lên của Trái Đất do các khí thải làm tăng hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, việc sử dụng hợp lí tài nguyên, BVMT để cho sự phát triển của xã hội hôm nay không làm hạn chế cho sự phát triển của ngày mai, phải tạo được nền tảng cho sự phát triển của tương lai. Cơ sở của sự phát triển bền vững đó là: + Giảm đến mức thấp nhất của sự cạn kiệt tài nguyên môi trường. Đảm bảo sử dụng lâu dài các tài nguyên tái tạo lại được bằng cách tái chế, tránh lãng phí, tìm ra nguyên liệu mới thay thế. + Bảo tồn tính đa dạng sinh học, quản lí tốt phương thức và mức độ sử dụng. + Bảo vệ, duy trì các hệ sinh thái tự nhiên, phục hồi lại các môi trường đã bị suy thoái, giữ gìn cân bằng. Để làm được điều đó cần phải có sự phối hợp, nỗ lực chung của các quốc gia, mọi tầng lớp trong xã hội. + Cần nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu. + Chấm dứt chạy đua vũ trang, chấm dứt chiến tranh. + Giúp các nước đang phát triển thoát khỏi đói nghèo. + Áp dụng các tiến bộ khoa học – kĩ thuật để kiểm soát tình trạng môi trường, sử dụng hợp lí tài nguyên. Hướng đến đầu tư “thông minh” nhằm tính đầy đủ các phí tổn về khí hậu và môi trường. + Phải thực hiện các công tác quốc tế về môi trường, luật môi trường. Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Do đó, năm 1987 Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm Phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”. Để xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc: 1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. 2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. 3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất. 4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được. 5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất. 6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. 7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. 8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ. 9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu. Chính phủ và các tổ chức quốc tế là những tổ chức tiên phong trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH). [7] Các nhà lãnh đạo thông qua hiệp định Paris về biến đổi khí hậu tại COP21 Tuy nhiên, để phát triển môi trường bền vững cần thiết phải có sự tham gia hành động của tất cả mọi người. Hãy bắt đầu từ chính bản thân và gia đình bạn, những tế bào nhỏ nhất của xã hội. Bạn cần nhớ rằng, bất cứ hoạt động nào của chúng ta cũng tạo ra khí nhà kính làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của môi trường, ví dụ như: Tiêu thụ năng lượng, thói quen mua sắm, sử dụng phương tiện giao thông Bởi vậy, chúng ta hoàn toàn có thể lựa chọn hoạt động và kiểm soát lượng khí thải của mình. Chỉ cần thực hiện các hành động nhỏ, bạn đã góp phần làm giảm BĐKH từ đó tạo điều kiện để cho môi trường phát triển bền vững. Ví dụ: Trong gia đình và nơi làm việc: + Sử dụng ánh sáng tự nhiên vào ban ngày và sử dụng các bóng đèn tiết kiệm điện. + Rút hẳn phích điện và tắt đèn khi không dùng. Nếu sử dụng điều hòa nhiệt độ, hãy để ở mức 25-26oC. + Hạn chế sử dụng các hóa chất tổng hợp. Hãy tham gia các giải pháp sinh học hoặc các chất có nguồn gốc từ thực vật. + Thay đổi khẩu phần ăn hàng ngày. Ăn nhiều rau xanh để góp phần giảm phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi gia súc. + Tái chế giấy, thủy tinh, nhôm, thép và các nguyên liệu khác để giảm các nguyên liệu mới, có thể giúp tiết kiệm năng lượng. + Giảm lượng giấy sử dụng: Sử dụng cả hai mặt giấy và tái chế giấy có thể tiết kiệm 2,5 kg khí nhà kính đối với mỗi kg giấy sử dụng. Khi mua sắm + Hạn chế sử dụng túi nilon. + Chọn mua các thiết bị có dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Bạn có biết, sử dụng tủ lạnh tiết kiệm năng lượng có thể tiết kiệm được gần một nửa tấn CO2 mỗi năm so với sử dụng tủ lạnh thông thường. + Chọn mua những sản phẩm địa phương, vì việc vận chuyển sản phẩm nhập khẩu sẽ tiêu tốn nhiều nhiên liệu gây phát thải nhiều khí nhà kính. Tại cộng đồng + Hãy tham gia trồng cây, bảo vệ rừng và biển. Bạn có thể đã biết cây xanh hấp thụ khí CO2 rất tốt vì vậy làm giảm thiểu được khí nhà kính. Dự án phủ xanh đồi trọc được đưa ra và triển k
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_giao_duc_phat_trien_moi_truong_ben_vung_vao_ti.doc