SKKN Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và Từ học Vật lý 11 chuẩn

SKKN Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và Từ học Vật lý 11 chuẩn

Vật lý học là một môn khoa học thực nghiệm cũng là môn khoa học cơ bản làm nền tảng cung cấp cơ sở lý thuyết cho một số môn khoa học ứng dụng khác. Môn Vật lý nghiên cứu những sự vật, hiện tượng xảy ra hàng ngày, có tính ứng dụng thực tiễn đang xảy ra trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các hiện tượng cơ, nhiệt, điện, quang. xảy ra trong cuộc sống. Việc học môn Vật lí không chỉ dừng lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lí để giải cho xong các bài toán và đi đến những đáp số, mà còn giải thích được các hiện tượng Vật lí đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối tượng của nền văn minh mà ta đang sử dụng.

 Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lí hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời gian dạy học sinh nhận diện các dạng, loại bài toán khác nhau và cách vận dụng các công thức Vật lí cho từng dạng, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học sinh giải thích các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Nếu có giải thích thì chỉ là những hiện tượng có sẵn trong sách giáo khoa chứ giáo viên ít sử dụng phương pháp dạy học tích hợp dưới hình thức lồng ghép trong bộ môn Vật lí nói chung và trong các phần liên quan đến hiện tượng Điên và Từ trong chương trình lớp 11 ban cơ bản nói riêng.

 Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó, tôi đã nghiên cứu đề tài “Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và Từ học Vật lý 11 chuẩn”, nhằm giúp học sinh yêu thích và hiểu rõ hơn bản chất Vật lý của các hiện tượng Điện và Từ. Từ đó dễ dàng giải thích được các hiện tượng xảy ra xung quanh mình và làm tốt các bài tập định tính nâng cao kết quả học tâp.

 

doc 12 trang thuychi01 29126
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và Từ học Vật lý 11 chuẩn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I. MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Vật lý học là một môn khoa học thực nghiệm cũng là môn khoa học cơ bản làm nền tảng cung cấp cơ sở lý thuyết cho một số môn khoa học ứng dụng khác. Môn Vật lý nghiên cứu những sự vật, hiện tượng xảy ra hàng ngày, có tính ứng dụng thực tiễn đang xảy ra trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các hiện tượng cơ, nhiệt, điện, quang... xảy ra trong cuộc sống. Việc học môn Vật lí không chỉ dừng lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lí để giải cho xong các bài toán và đi đến những đáp số, mà còn giải thích được các hiện tượng Vật lí đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối tượng của nền văn minh mà ta đang sử dụng.
 Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lí hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời gian dạy học sinh nhận diện các dạng, loại bài toán khác nhau và cách vận dụng các công thức Vật lí cho từng dạng, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học sinh giải thích các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Nếu có giải thích thì chỉ là những hiện tượng có sẵn trong sách giáo khoa chứ giáo viên ít sử dụng phương pháp dạy học tích hợp dưới hình thức lồng ghép trong bộ môn Vật lí nói chung và trong các phần liên quan đến hiện tượng Điên và Từ trong chương trình lớp 11 ban cơ bản nói riêng. 
	Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó, tôi đã nghiên cứu đề tài “Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và Từ học Vật lý 11 chuẩn”, nhằm giúp học sinh yêu thích và hiểu rõ hơn bản chất Vật lý của các hiện tượng Điện và Từ. Từ đó dễ dàng giải thích được các hiện tượng xảy ra xung quanh mình và làm tốt các bài tập định tính nâng cao kết quả học tâp.
2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
2.1 Mục tiêu:
 Giải thích định tính được một số hiện tượng Điện và Từ thường gặp trong đời sống hàng ngày bằng phương pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Vật lí ở trường THPT mà không làm quá tải môn học.
2.2 Phạm vi nghiên cứu:
 Vận dụng phương pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép để giải thích một số hiện tượng liên quan đến Điện và Từ trong một số tiết học ở chương trình Vật lí lớp 11 chương trình chuẩn.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Phần Điện và Từ chương trình SGK vật lý 11 chương trình chuẩn.
 Tổ chức thực nghiệm sư phạm ở 2 lớp 11A6 và 11A7 trường THPT Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
 - Nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp DHTH và hình thức lồng ghép.
 - Tìm hiểu một số hiện tượng Điện và Từ có liên quan đến các tiết học trong chương trình Vật lí 11 chương trình chuẩn.
 - Thực nghiệm sư phạm các phương án dạy học đã thiết kế.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
 - Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến phương pháp DHTH và hình thức lồng ghép.
 - Nghiên cứu về các hiện tượng Điện và Từ trong chương trình sách giáo khoa 11 chuẩn và các tài liệu tham khảo.
- Nghiên cứu các hiện tượng Vật lý xảy ra xung quanh chúng ta hàng ngày có liên quan tới Điện và Từ trong chương trình SGK.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
 - Xây dựng các hiện tượng Điện và Từ vào các tiết dạy cụ thể trong chương trình Vật li 11chương trình chuẩn.
 - Tổ chức thực nghiệm sư phạm ở 2 lớp 11A6 và 11A7 trường THPT Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. 
 - Xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm bằng thuật toán thống kê.
PHẦN II: NỘI DUNG.
	CHƯƠNG 1. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP VÀ HÌNH THỨC LỒNG GHÉP TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ.
1.1. Khái niệm về dạy học tích hợp.
 Quá trình DHTH được hiểu là một quá trình dạy học trong đó toàn thể các hoạt động học tập góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho học sinh, nhằm phuc vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động (Xavier Roegiers(1996)). Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phù hợp với mục tiêu giáo dục của nhà trường nhưng không làm tăng nội dung môn học.
 DHTH hướng tới việc tổ chức các hoạt động học tập, trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp những kiến thức, những kĩ năng trong các tình huống gần với cuộc sống và có ý nghĩa. Cụ thể là cần kết hợp một cách hữu cơ có hệ thống các kiến thức (khái niệm) thuộc các môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học đó.
 DHTH hướng tới thiết lập mối quan hệ giữa các khái niệm khác nhau của cùng một môn học cũng như của các môn học khác nhau, hướng tới đào tạo học sinh có năng lực đáp ứng được thách thức lớn của xã hội ngày nay là có được khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình để giải quyết một cách hữu ích một tình huống xuất hiện, hoặc có thể đối mặt với một khó khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp. Tư tưởng sư phạm đó gắn liền với việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề, phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học.
1.2. Các mục tiêu của dạy học tích hợp.
 DHTH nhấn mạnh các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa phong phú hơn bằng cách đặt quá trình học tập vào các hoàn cảnh (tình huống) để HS nhận thấy ý nghĩa của các kiến thức, kỹ năng, năng lực cần lĩnh hội. Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc tạo động lực học tập cho HS, điều mà hiện nay nhiều học sinh đã không có được và do đó việc học tập trở nên nặng nề, thiếu niềm vui và hứng thú. Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức, kỹ năng, năng lực của HS đều được huy động và gắn với thực tế cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn.
 Mục tiêu này đòi hỏi phải lựa chọn kiến thức, kỹ năng cốt yếu xem là quan trọng đối với quá trình học tập của HS và dành thời gian cũng như các giải pháp hợp lý cho chúng.
- Dạy HS sử dụng kiến thức trong hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở việc:
 	+ Nêu bật cách thức sử dụng kiến thức đã học;
 	+ Tạo các tình huống học tập để HS vận dụng kiến thức một cách sáng tạo, tự lực.
 Theo yêu cầu này thì DHTH không chỉ quan tâm đánh giá việc HS hiểu những kiến thức đã học, mà còn đánh giá khả năng vận dụng kiến thức trong các tình huống có ý nghĩa. Hình thành và rèn luyện những kỹ năng đa thành phần trong cuộc sống và học tập.
1.3. Vì sao phải thực hiện dạy học tích hợp.
 Có thể nêu lên một số lý do của việc thực hiện DHTH ở trường phổ thông như sau:
- DHTH góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của Nhà trường phổ thông.
- Vận dụng DHTH là một yêu cầu tất yếu của việc thực hiện nhiệm vụ dạy học ở nhà trường phổ thông. Như Luật giáo dục (2005) đã nêu: “ Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triền toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Việc có nhiều môn học đã được đưa vào Nhà trường phổ thông hiện nay là sự thể hiện quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Các môn học đó phải liên kết với nhau để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục nêu trên.
- Mặt khác, hiện nay các tri thức khoa học và kinh nghiệm xã hội của loài người phát triển như vũ bão, trong khi quỹ thời gian cũng như kinh phí để HS ngồi trên ghế nhà trường là có hạn, thì không thể đưa nhiều môn học hơn nữa vào nhà trường, cho dù những tri thức này là rất cần thiết. Chẳng hạn, ngày nay người ta nhận thấy cần thiết phải trang bị nhiều kỹ năng sống cho HS (các kiến thức về an toàn giao thông, về bảo vệ môi trường sống, về năng lượng và sử dụng năng lượng, về định hướng nghề nghiệp,) trong khi những tri thức này không thể tạo thành môn học mới để đưa vào Nhà trường vì lí do phải đảm bảo khối lượng kiến thức phù hợp với sự phát triển của HS.
- Dù khác nhau về đặc trưng bộ môn, song các môn học trong nhà trường phổ thông hiện nay đều có chung nhiệm vụ là hiện thực hoá mục tiêu phát triển toàn diện HS. Có thể nêu những nét chung cơ bản của nhiệm vụ các môn học được dạy trong nhà trường như sau:
 + Hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng theo yêu cầu khoa học bộ môn;
 + Phát triển tư duy, năng lực sáng tạo cho HS phù hợp với đặc trưng môn học;
 + Giáo dục HS thông qua quá trình dạy học bộ môn (như hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan và thái độ, phẩm chất nhân cách của người lao động mới).
 + Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị cho HS tham gia lao động sản xuất, giáo dục kỹ năng sống
 Các nhiệm vụ trên chỉ có thể thực hiện được thông qua các môn học. Quá trình xây dựng chương trình, SGK các môn học đã tích hợp nhiều tri thức để thực hiện các nhiệm vụ trên, song không thể đầy đủ và phù hợp với tất cả các đối tượng HS. Vì vây, trong quả trình dạy học, GV phải nghiên cứu để tích hợp các nội dùng này một cách cụ thể cho từng môn học và phù hợp với từng đối tượng HS ở các vùng miền khác nhau.
 Mặt khác, do cùng chung các nhiệm vụ dạy học nêu trên nên các môn học cũng có nhiều cơ hội để liên kết với nhau, tạo ra mối quan hệ liên môn.
- Do bản chất của mối liên hệ giữa các tri thức khoa học.
 Lý do cần dạy học tích hợp các khoa học trong nhà trường còn xuất phát từ chính yêu cầu phát triển của các khoa học. Các nhà khoa học cho rằng khoa học ở thế kỷ XX đã chuyển từ phân tích cấu trúc lên tổng hợp hệ thống làm xuất hiện các liên ngành (như sinh thái học, tự động hoá). Vì vậy, xu thế dạy học trong nhà trường là phải làm sao cho tri thức của HS xác thực và toàn diện. Quá trình dạy học phải làm sao liên kết, tổng hợp hoá các tri thức, đồng thời thay thế “ tư duy cơ giới cổ điển” bằng “ tư duy hệ thống”. Theo Xavier Rogiers, nếu nhà trường chỉ quan tâm dạy cho HS các khái niệm một cách rời rạc, thì nguy cơ sẽ hình thành ở HS các “Suy luận theo kiểu khép kín”, sẽ hình thành những con người “ mù chức năng”, nghĩa là những người đã lĩnh hội kiến thức nhưng không có khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày. 
- Góp phần giảm tải học tập cho HS.
 Từ góc độ giáo dục, DHTH giúp phát triển các năng lực, đặc biệt là trí tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy của HS, vì nó luôn tạo ra các tình huống để HS vận dụng kiến thức trong các tình huống gần với cuộc sống. Nó cũng làm giảm sự trùng lặp các nội dung dạy học giữa các môn học, góp phần giảm tải nội dung học tập. Nhân đây cũng nên nhìn nhận sự giảm tải ở một góc độ khác, nghĩa là giảm tải không chỉ gắn với việc giảm thiểu kiến thức môn học, hoặc thêm thời lượng cho việc dạy học một nội dung kiến thức theo quy định. Phát triển hứng thú học tập cũng có thể được xem như một biện pháp giảm tải tâm lý học tập có hiệu quả và rất có ý nghĩa. Làm cho HS thấu hiểu ý nghĩa của các kiến thức cần tiếp thu, bằng cách tích hợp một cách hợp lý và có ý nghĩa các nội dung gần với cuộc sống vào môn học, từ đó tạo sự xúc cảm nhận thức cũng sẽ làm cho HS nhẹ nhàng vượt qua các khó khăn nhận thức và việc học tập khi đó mới trở thành niềm vui và hứng thú của HS.
1.4. Hình thức lồng ghép trong dạy học tích hợp.
 Hình thức lồng ghép trong DHTH được thực hiện khi hầu hết các kiến thức của môn học, hoặc nội dung của một bài học cụ thể cũng chính là các kiến thức về Điện hoặc Từ.
1.5. Hoạt động của giáo viên trong dạy học tích hợp lồng ghép. 
 Hoạt động 1: Nghiên cứu chương trình, SGK để xây dựng mục tiêu dạy học, trong đó có các mục tiêu giải thích được một (hoặc một vài) hiện tượng Điện hoặc Từ.
 Hoạt động 2: Xác định nội dung các hiện tượng cụ thể cần tích hợp. GV lựa chọn tư liệu và phương án tích hợp, cụ thể phải trả lời các câu hỏi: tích hợp nội dung nào là hợp lý? Thời lượng là bao nhiêu?
 Hoạt động 3: Lựa chọn các phương pháp dạy học và phương tiện phù hợp, trước hết quan tâm sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện dạy học có hiệu quả cao để tăng cường tính trực quan và hứng thú học tập của HS (như sử dụng các thí nghiệm, máy vi tính, máy chiếu)
 Hoạt động 4: Xây dựng tiến trình dạy học cụ thể. Ở đây GV cần nêu cụ thể các hoạt động của HS, các hoạt động trợ giúp của GV.
Chương 2. XÂY DỰNG VÀ GIẢI THÍCH MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG ĐIỆN VÀ TỪ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP LỒNG GHÉP TRONG CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÍ LỚP 11 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN.
2.1. Một số địa chỉ và nội dung tích hợp.
Tên bài học
Địa chỉ (tích hợp vào nội dung nào của bài)
Nội dung tích hợp
Giải thích
Bài 2: Thuyết electron. Định luật bảo toàn điện tích.
Mục I.2.Thuyết electron.
MụcII.2.Sự nhiễm điện do tiếp xúc.
Vì sao trong xưởng dệt vải người ta phải làm cho không khí có độ ẩm cao?
Vì sao xe chở xăng phải thả xích lòng thòng xuống đường?
Khi máy dệt hoạt động, do ma sát, các sợi vải có thể bị nhiễm điện, do đó các sợi vải có thể bị rối với nhau. Người ta phải làm cho không khí trong xưởng có độ ẩm cao để các điện tích xuất hiện trên các sợi vải nhanh chóng mất đi.
Cái xích lòng thòng xuống đất của những xe chở nhiên liệu có tác dụng bảo hiểm cho xe trong khi chuyển động.Bụi trong không khí thường tích điện, nếu bụi bám đầy vào thùng xăng của xe thì điện tích tập trung khá lớn có thể sinh ra tia lửu điện gây nên hỏa hoạn. Nối xích với thùng xe và thả lòng thòng xuống mặt đường làm cho điện tích ở thùng xe truyền xuống đất.
Bài 7: Dòng điện không đổi. Nguồn điện.
Mục V.1.Pin điện hóa (GIẢM TẢI).
Vì sao có trường hợp đánh rơi pin, một lúc sau thấy pin nóng lên và chẳng bao lâu pin đã hết điện?
Để cho điên trở trong của pin thật nhỏ người ta đã làm lớp bột hồ trộn dung dịch điện phân rất mỏng. Khi pin bị đánh rơi có thể vỏ kẽm của nó (cực âm) đã móp lại và chạm vào cực dương (túi đựng chất khử cực và thỏi than). Thành thử pin bị đoản mạch, cường độ dòng điện lớn làm nóng pin và tiêu hao rất nhanh năng lượng của pin.
Bài 8: Điện năng. Công suất điện
Muc II.1.Định luật Joule - Lenz.
-Vì sao dây bếp điện mắc trong mạch điện bị nóng đỏ, trong khi đó dây dẫn không bị nóng đỏ?
- Cầu chì có tác dụng gì? ( Hiện nay chỉ còn sử dụng trong các thiết bị điện tử)
Các dây dẫn và bếp điện được mắc nối tiếp trong mạch điện nên cường độ dòng điện qua các dây dẫn là như nhau. Nhưng điện trở của bếp điện lớn hơn điện trở của các dây nối,nhiệt lượng tỏa ra ở bếp điện lớn hơn; mặt khác, dây điện bị cuốn xoắn ốc, nhiệt tỏa ra được tập trung hơn nên dây càng nóng đỏ.
Khi cường độ dòng điện trong dây dẫn quá lớn thì nhiệt lượng toả ra rất lớn có thể làm nóng đỏ dây dẫn gây nên hoả hoạn. Những trường hợp cường độ dòng điện đột nhiên lớn thường xảy ra khi dây dẫn bị chập, lúc đó điện trở quá nhỏ nên cường độ tăng mạnh theo định luật ôm (ta gọi là đoản mạch). Để tránh hoả hoạn và bảo vệ các dụng cụ dùng điện khỏi bị phá huỷ do dòng điện quả quá lớn, ta phải làm thế nào để trong trường hợp này mạch điện phải bị ngắt ở một chỗ dự kiến sẵn, chỗ đó chính là cầu chì. Cầu chì là một đoạn dây chỉ mắc nối tiếp trong mạch điện. Vì chỉ có điện trở suất lớn và nhiệt độ nóng chảy thấp, nên khi có dòng điện qua sức chịu đựng dây chì sẽ đứt trước.Ở một số máy móc như đài thu thanh, máy quay đĩa người ta đã lắp cầu chì tính toán sẵn cho từng loại máy. Chẳng hạn cầu chì 125mA hay 200mA v.vcó nghĩa là nếu dòng điện vượt quá trị số 125mA hay 200mA thì cầu chì sẽ đứt để bảo vệ máy. Khi đứt cầu chì ấy ta phải thay cầu chì với chỉ số đúng như thế.
Bài 14: Dòng điện trong chất điện phân.
Mục II.Bản chất dòng điện trong chất điện phân.
Vì sao xà phòng có thể tẩy sạch các vết dầu mỡ trên quần áo?
Xà phòng là một loại muối của axít béo. Như ta đã biết, các chất muối đều là chất điện phân, nghĩa là khi hoà tan trong nước các phân tử xà phòng bị phân lì thành các iôn. Xà phòng thường dùng là natri stêarat (C17 H35 COONa). Khi tan vào nước nó bị phân li thành những iôn stêarat âm ( catiôn). Iôn stêrat có khả năng “Chui” vào các giọt dầu bám chặt trên quần áo làm cho chúng có điện tích âm và có xu hướng đẩy các giọt dầu khác tạo thành nhũ tương. Lúc đó ta chỉ cần vò quần áo là những hạt nhũ tương này sẽ bị trôi vào nước.
Bài 15: Dòng điện trong chất khí.
Mục V.3. Ứng dụng.
Vì sao đỉnh cột thu lôi được làm nhọn ?
Sét hay đánh vào những chỗ nhô cao trên mặt đất, cho nên để tránh sét Franklin đã làm những cột kim loại nhọn đầu đặt trên nóc những toà nhà cao để “Thu” lấy sét rồi truyền xuống đất. Nhưng thật ra cột thu lôi còn có tác dụng làm cho một đám mây tích điện khó gây ra sét. Sỡ dĩ như vậy vì đầu trên của cột thu lôi được làm nhọn. Khi có một đám mây phần dưới tích điện âm chẳng hạn tới gần thì do hưởng ứng, ở đầu cột thu lôi sẽ tích điện dương. Nên đầu cột thu lôi nhọn, các điểm tích dương này sẽ “rò” ra khỏi mũi nhọn tạo thành một luồng “ gió điện dương” phóng lên đám mây làm trung hoà nhưng điện tích âm của nó. Mây bị mẩt rất nhiều điện tích nên khó có thể gây ra sét được. Đó là lý do vì sao phải làm đỉnh cột thu lôi nhọn.
Bài 19. Từ trường.
Mục I. Nam châm.
Một thanh nam châm và một thanh sắt có kích thước giống nhau, làm thế nào để phân biệt được chúng nếu không có một vật thứ ba làm trung gian?
Đưa thanh nam châm lại gần thanh sắt, thanh sắt bị hút. Nhưng nếu đưa thanh sắt lại gần thanh nam châm thì thanh nam châm cũng bị hút. Như vậy làm thế nào phân biệt được thanh nào là nam châm, thanh nào là sắt?
Ta có thể phân bệt bằng cách sau: đưa đầu cực của một trong hai thanh vào chính giữa thanh kia, nếu chúng hút chặt vào nhau thì thanh đang cầm là nam châm. Nếu chúng không hút chặt thì thanh đang cầm là thanh sắt. Thật vậy, đường sức của thanh nam châm tập trung ở hai cực. Như vậy từ trường ở gần hai đầu thanh nam châm mạnh còn không gian chung quanh khoảng giữa thanh nam châm thì từ trường rất yếu. Do đó, nếu đưa thanh sắt vào khoảng giữa thanh nam châm thì dường như không thấy xuất hiện lực hút hoặc lực hút rất yếu.
Bài 21. Từ trường của dòng điện chạy trong các dây dẫn có hình dạng đặc biệt.
Mục I.Từ trường của dòng điện chạy trong dây dẫn thẳng dài.
Làm thế nào xác định dược vị trí đường dây dẫn đặt ngầm dưới đất hay dướ sàn xi măng?
Để tìm vị trí đường dây ngầm có thể dùng một la bàn hay một kim nam châm đặt trên một trục thẳng đứng. Ở những vị trí xa dòng điện, kim la bàn trỏ phương bắc- nam như bình thường. Khi la bàn đặt đến gần dòng điện thì kim lệch đi một góc, càng gần dòng điện góc lệch càng lớn. Như vậy ở những vị trí mà kim la bàn lệch một góc lớn nhất thì ở dưới đó có dây dẫn đặt ngầm. Tất nhiên khi tiến hành cuộc “Thăm dò” như vậy ta phải đóng mạch điện để trong dây dẫn có dòng điện.
2.2 Bài minh chứng: Vận dụng phương pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép vào giáo án - tiết 13 " Bài 8 Điện năng. Công suất điện".
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức 
- Nêu được công của dòng điện là số đo điện năng mà đoạn mạch tiêu thụ khi có dòng điện chạy qua. Chỉ ra được lực nào thực hiện công ấy.
2. Kĩ năng
- Tính được điện năng tiêu thụ và công suất điện của một đoạn mạch theo các đại lượng liên quan và ngược lại.
- Tính được nhiệt lượng tỏa ra ở một vật dẫn và công suất tỏa nhiệt của vật dẫn đó.
- Giải thích được hiện tượng: dây bếp điện mắc trong mạch điện bị nóng đỏ, trong khi đó dây dẫn không bị nóng đỏ.
- Nêu được tác dụng của cầu chì.
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên: Đọc sách giáo khoa Vật lí lớp 9 để biết học sinh đã học những gì về công, công suất của dòng điện, Định luật Jounle - Lenz và chuẩn bị các câu hỏi hướng dẫn học sinh ôn tập.
2. Học sinh: Ôn tập phần này ở lớp 9 THCS và thực hiện các câu hỏi hướng dẫn mà giáo viên đặt ra.
III. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC
Hoạt động 1 (5 phút): Kiểm tra bài cũ: Nguồn điện là gì? Suất điện động của nguồn điện?
Hoạt động 2 (10 phút) : Tìm hiểu điện năng tiêu thụ và công suất điện.
Trợ giúp của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Nội dung cơ bản
 Giới thiệu công của lực điện.
 Yêu cầu học sinh thực hiện C1.
 Yêu cầu học sinh thực hiện C2.
 Yêu cầu học sinh thực hiện C3.
 Giới thiệu công suất điện.
 Yêu cầu học sinh thực hiện C4.
 Ghi nhận khái niệm.
 Thực hiện C1.
 Thực hiện C2.
 Thực hiện C3.
 Ghi nhận khái niệm.
 Thực hiện C4.
I. Điện năng tiêu thụ và công suất điện
1. Điện năng tiêu thụ của đoạn mạch
A = Uq = UIt
 Điện năng tiêu thụ của một đoạn mạch bằng tích của hiệu điện thế giữa hai đầ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_giai_thich_mot_so_hien_tuong_thuc_te_trong_doi.doc