SKKN Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn

SKKN Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn

 Biển và hải đảo có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển. Ngoài phần lãnh thổ đất liền “hình cong chữ S”, Việt Nam còn có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán nằm trong Biển Đông. Trong các vùng biển đó có khoảng 4000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, trong đó có 2 quần đảo nằm án ngữ ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa .

 Biển và hải đảo Việt Nam chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, có giá trị kinh tế cao, rất có ý nghĩa đối với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, biển đảo còn là nơi tiềm ẩn, xuất hiện những thiên tai khốc liệt đã và đang là mối hiểm họa cho môi trường sinh sống của cư dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế xã hội, giao lưu văn hóa và bảo vệ an ninh quốc phòng.

 Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam và ngày càng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bước sang thế kỉ XXI là “Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trước những tiềm năng, lợi thế to lớn của biển, đảo, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV (khóa X) Ban chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định rõ “đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển: đảm bảo vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển đảo; góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”.

 Biển, đảo quan trọng là thế tuy nhiên môn Lịch sử ở trong trường học chưa được đề cập một cách xứng đáng, việc ông cha ta đổ xương máu để giữ gìn biển, đảo chưa được đưa vào SGK lịch sử, nếu có thì chỉ là điểm qua. Chính vì vậy việc các em học sinh không thể nắm được sự hy sinh cao cả của ông cha là điều hiện hữu. Từ đó có thể nói rằng vấn đề chủ quyền và quyền chủ quyền của các em về biển đảo quê hương còn rất mơ hồ. Chưa nói rằng trước đây và hiện nay Trung Quốc đang có nhiều hành động xây dựng trái phép ở Biển Đông xâm phạm đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

 

doc 21 trang thuychi01 6932
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. mỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài...2
- Mục đích nghiên cứu. ................................................................................................2
- Đối tượng nghiên cứu. ....2
- Phương pháp nghiên cứu.2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆm .......................................................2
2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm...........................................................3
2.2 Thực trạng....4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. .8
2.3.1. Chọn những địa điểm cần tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử khối 7, khối 9..............................................................................................................8
2.3.2. Chọn nội dung để tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử khối 7, khối 9..................................................................................................................................8
2.3.3. Thực hiện nội dung tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học ở Trường THCS Chu Văn An..............................................................................................................15
2.4 Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục, bản thân đồng nghiệp và nhà trường....18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...19
1. Kết luận....19
2. Kiến nghị..19
1. mỞ ĐẦU
	- Lý do chọn đề tài.
	Biển và hải đảo có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển. Ngoài phần lãnh thổ đất liền “hình cong chữ S”, Việt Nam còn có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán nằm trong Biển Đông. Trong các vùng biển đó có khoảng 4000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, trong đó có 2 quần đảo nằm án ngữ ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa ...
	Biển và hải đảo Việt Nam chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, có giá trị kinh tế cao, rất có ý nghĩa đối với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, biển đảo còn là nơi tiềm ẩn, xuất hiện những thiên tai khốc liệt đã và đang là mối hiểm họa cho môi trường sinh sống của cư dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế xã hội, giao lưu văn hóa và bảo vệ an ninh quốc phòng.
	Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam và ngày càng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bước sang thế kỉ XXI là “Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trước những tiềm năng, lợi thế to lớn của biển, đảo, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV (khóa X) Ban chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định rõ “đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển: đảm bảo vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển đảo; góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”.
	Biển, đảo quan trọng là thế tuy nhiên môn Lịch sử ở trong trường học chưa được đề cập một cách xứng đáng, việc ông cha ta đổ xương máu để giữ gìn biển, đảo chưa được đưa vào SGK lịch sử, nếu có thì chỉ là điểm qua... Chính vì vậy việc các em học sinh không thể nắm được sự hy sinh cao cả của ông cha là điều hiện hữu. Từ đó có thể nói rằng vấn đề chủ quyền và quyền chủ quyền của các em về biển đảo quê hương còn rất mơ hồ. Chưa nói rằng trước đây và hiện nay Trung Quốc đang có nhiều hành động xây dựng trái phép ở Biển Đông xâm phạm đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam.... 
	- mục đích nghiên cứu. 
	Với những gì nói trên tôi nghĩ dạy cho các em hiểu được không gì có thể chia cắt được lãnh thổ nước ta bao gồm cả vùng đất, vùng trời và vùng biển trong đó có các đảo là trách nhiệm của chúng ta trong đó có bộ môn Lịch sử. Từ đó giúp các em nhận thức được rằng bảo vệ chủ quyền biển đảo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Người dạy Lịch sử cũng cần có thái độ rõ ràng rằng hành động của Trung quốc ở biển đông là hành động xây dựng trái phép hay xâm lược? Với lý do đó bản thân tôi chọn đề tài viết SKKN là: “Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn”.
	- Đối tượng nghiên cứu. 
	Đối tượng nghiên cứu là các em học sinh khối 7, lớp 9 Trường THCS Chu Văn An. Đề tài tập trung tích hợp các sự kiện về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVI đến nay vào SGK lớp 7, lớp 9. Đồng thời cũng đề cập đến các chủ trương và giải pháp của ta nhằm ổn định tình hình tranh chấp trên biển đông. Từ đó cho học sinh liên hệ đến tình hình hiện nay, Việt Nam cần làn gì để bảo vệ chủ quyền dân tộc; ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ như thế nào trong xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo!
	- Phương pháp nghiên cứu.
	Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Trong qúa trình viết SKKN và áp dụng bản thân tôi đã sưu tầm tài liệu trong thư viện, qua mạng và đồng nghiệp.
	Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: qua thực tế dạy học lịch sử ở các khối 7, 9 và qua khảo sát học sinh để xác định nội dung tích hợp.
	Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: yêu cầu học sinh về tìm hiểu các nội dung có liên quan, bản thân tổng hợp và xử lý....
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆm
	2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm.
	 Biển Đông là địa danh truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay dùng để chỉ một vùng biển nằm về phía Đông của dải đất Việt Nam cong hình chữ S. Địa danh Biển Đông đã khắc sâu trong tâm trí người Việt. Biển Đông là một biển tương đối kín. Có 9 nước tiếp giáp Biển Đông Việt Nam gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây, malaixia, Xingapo, Thái Lan và Campuchia. Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của khoảng 300 triệu dân các nước này và là một khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước.
Việt Nam giáp biển Đông ở 3 phía: phía Đông, phía Nam và phía Tây Nam. Bờ biển nước ta dài 3260 km, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang với các vùng biển và thềm lục địa, tính trung bình cứ 100 km2 đất liền thì có 1 km bờ biển. Giữa Biển Đông có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và hàng nghàn đảo lớn nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ các vùng biển và thềm lục địa.
	Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô, phân bố rải rác từ khoảng kinh tuyến 1110 đến 1130 Đông; từ vĩ tuyến 15045’ đến 17015’ Bắc. Quần đảo Hoàng Sa gồm 37 đảo, đá, bãi cạn gồm có các đảo như Phú Lâm, Linh Côn, Hoàng Sa, Quang Ảnh, Hữu Nhật ....
	Quần đảo Trường Sa, bao gồm hơn 100 đảo, đá, bãi ngầm, bãi san hô nằm khoảng từ vĩ tuyến 6030’ đến 120 Bắc và khoảng từ kinh tuyến 111030’ Đông đến 117020’ Đông, gồm các đảo Song Tử, Sinh Tồn, Trường Sa, Bình Nguyên, Song Tử Tây.....
	Biển Việt Nam là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, điều kiện chung của khí hậu là nhiệt đới gió mùa, nguồn sinh vật biển phong phú đa dạng, rất giàu có về tài nguyên khoán sản và du lịch ...
	Với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng và với vị trí chiến lược về kinh tế, an ninh, quốc phòng, Biển Đông là mối quan tâm của nhiều nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên đa số các quốc gia hữu quan, cộng đồng quốc tế đều nhận thức rằng các tranh chấp trong Biển Đông phải được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật biển năm 1982.
2.2 Thực trạng
Một thực tế đáng để chúng ta phải suy nghĩ là, trong những năm gần đây và mấy tháng trở lại đây, Trung Quốc liên tiếp có nhiều hành động phiêu lưu quân sự trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được quốc tế thừa nhận. Điều đáng lo ngại trong nội dung và chương trình sách giáo khoa Lịch Sử trung học cơ sở hiện hành chưa có thông tin nói đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa!
Với góc độ là một giáo viên dạy Lịch sử ở trường trung học cơ sở , tôi thấy rằng kiến thức lịch sử về vấn đề chủ quyền gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc và có tầm quan trọng đặc biệt đối với giáo dục thế hệ trẻ nhưng chưa được đưa vào sách giáo khoa môn Lịch Sử?
Trên thực tế chúng ta đã nhiều lần thay đổi sách giáo khoa nhưng sách giáo khoa Lịch sử ở trường cơ sở vẫn giữ nguyên như cũ và chưa có thêm một dòng chữ nào về lịch sử chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Cụ thể: Ở sách giáo khoa Lịch Sử lớp 7, bài 20: Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527), trang 95, hình 44 - Lược đồ hành chính nước Đại Việt thời Lê sơ, hoàn toàn không vẽ và không giải thích về chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Ở bài 25: Phong trào Tây Sơn, trang 123, hình 57: Lược đồ Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và chống quân xâm lược nước ngoài, tuy có đánh đấu vị trí của Hoàng Sa, Trường Sa như các bản đồ Việt Nam khác nhưng không có thông tin nào nói đến chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này dưới thời Tây Sơn.
Ở bài 27: Chế độ phong kiến nhà Nguyễn, trang 135, hình 61- Lược đồ các đơn vị hành chính thời Nguyễn (từ năm 1832) tuy có đánh dấu Hoàng Sa, Trường Sa như bản đồ Việt Nam khác nhưng không giới thiệu một thông tin nào về chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này dưới thời Nguyễn.
Ở sách giáo khoa Lịch Sử lớp 9, bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954), trang 122, hình 53 - Hình thái chiến trường trên mặt trận Đông Xuân 1953-1954. Tuy có đánh dấu vị trí của Hoàng Sa, Trường Sa như bản đồ Việt Nam khác nhưng không giới thiệu một thông tin nào về hoạt động của quân dân ta ở Hoàng Sa, Trường Sa trong những năm 1953-1954.
Ở bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước( 1973-1975), trang 163, hình 77- Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, có đánh dấu quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và có vẽ đường mũi tên từ khu vực Cam Ranh ra Trường Sa nhưng không có lấy một lời giải thích.
Ngoài ra, sách giáo khoa Lịch Sử trung học cơ sở đều không nhắc đến 2 sự kiện quan trọng liên quan đến cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và bảo vệ chủ quyền 2 quần đảo này sau năm 1975 là sự kiện đầu năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ quân đội Việt Nam Cộng hòa và sự kiện Gạc Ma năm 1988.
Kết qủa của thực trạng trên là: Trong qúa trình dạy học giáo viên cũng rất khó đặt câu hỏi liên hệ đến tình hình hiện nay, học sinh không thể hiểu được vấn đề lịch sử chủ quyền ở đây là như thế nào? 
Như vậy, hầu hết các lược đồ chỉ xác định vị trí của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong khung chung của một bản đồ nền chính thức Việt Nam hiện nay mà không minh chứng cho một vấn đề nào của chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử. 
Vùng lãnh thổ, biển đảo, hải đảo do ông cha ta đã đổ bao mồ hôi, xương máu khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền từ nhiều đời, nhưng đang bị Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm thì cần phải được đề cập rõ ràng, chi tiết trong SGK. Điều này sẽ giúp cho không chỉ học sinh, mà tất cả mọi người dân, không chỉ Việt Nam, mà Trung Quốc và cả cộng đồng quốc tế biết rõ và có cách xử lý đúng theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Song song với việc đưa nội dung về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa... vào SGK mới, chúng ta cần phải triển khai giáo dục một cách mạnh mẽ cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, ý thức bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia lãnh thổ.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Chọn những địa điểm cần tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử khối 7, khối 9.
Đối với khối 7, bài 20: Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527), trang 95, hình 44 - Lược đồ hành chính nước Đại Việt thời Lê sơ, hoàn toàn không vẽ và không giải thích về chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa. Khi dạy mục 1 – Tổ chức bộ máy chính quyền. Giáo viên cần phải bổ xung cho học sinh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này dưới thời Lê sơ.
Ở bài 25: Phong trào Tây Sơn, trang 123, hình 57: Lược đồ Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và chống quân xâm lược nước ngoài, khi dạy mục 1- Lật đổ chính quyền họ Nguyễn, giáo viên cần khẳng định chủ quyền của Việt Nam dưới thời Tây Sơn.
Ở bài 27: Chế độ phong kiến nhà Nguyễn, trang 135, hình 61- Lược đồ các đơn vị hành thời Nguyễn (từ năm 1832), khi dạy mục 1 – Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền giáo viên cần giới thiệu thông tin về chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này dưới thời Nguyễn.
Đối với khối 9: Ở sách giáo khoa Lịch Sử lớp 9, bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954), trang 122, hình 53 - Hình thái chiến trường trên mặt trận Đông Xuân 1953-1954. Khi dạy mục 1- Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953- 1954 giáo viên giới thiệu thông tin về hoạt động của quân dân ta ở Hoàng Sa, Trường Sa trong những năm 1953-1954, đồng thời giáo viên cũng sử dụng để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở mục III – Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954 ).
Ở bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước( 1973-1975), trang 163, hình 77- Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, khi dạy mục 2 – Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1975, cần giải thích đường mũi tên từ khu vực Cam Ranh ra Trường Sa.
2.3.2. Chọn nội dung để tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử khối 7, khối 9.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được minh chứng trong các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII theo bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây, hầu hết các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Paracel hay Paracels. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trên Biển Đông đã được thế giới khẳng định qua các bản đồ đã được xuất bản và công bố từ hơn 500 năm qua.
Việt Nam trên các bản đồ phương Tây mới, từ thế kỷ XVI
Diogo Ribeiro, năm 1529.
Livro da Marinharia, năm 1560 
(vòng tròn đỏ luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi)
Bản đồ lưu trữ ở La Haye, Hà Lan, 1658
 	Trước năm 1884, Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là vùng đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thực sự đòi hỏi.
	Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn: Chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, đó là sự ra đời và hoạt động liên tục của Đội Hoàng Sa – một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau này lập thêm Đội Bắc Hải do Đội Hoàng Sa kiêm quản, đội đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.
	Thời Tây Sơn nhà nước Đại Việt từ 1771 đến 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như trên Biển Đông, tuy vậy các Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh và Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực mà mình quản lý.
	Sau khi đánh bại Tây Sơn thống nhất đất nước Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục quan tâm đến việc bảo vệ, quản lý và khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
	 Một số tư liệu lịch sử ghi nhận những sự kiện pháp lý của Việt Nam như: Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo vẽ vào thế kỷ XVII, Giáp Ngọ Bình Nam đồ do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Qúy Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, Đại Nam thống nhất toàn đồ, bản đồ nước Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1834, Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ do giám mục Taberd lập và xuất bản năm 1838 hay Đại Nam thống nhất chí, bộ sách địa lý Việt Nam do Quốc Sử quán nhà Nguyễn soạn 1882 .......tất cả đều ghi Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Đại Nam nhất thống toàn đồ 1834
An Nam đại quốc họa đồ năm 1838
Tờ tâu của Bộ Công đệ trình lên vua Thiệu Trị năm 1847 khẳng định “Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta”
Trên đây là những tư liệu để giáo viên sử dụng cho việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi dạy các bài có liên quan như đã nêu khi dạy phần Lịch sử lớp 7.
Đối với 2 bài lớp 9, bài 27 và bài 30 giáo viên sẽ vận dụng, thu thập tài liệu kiến thức từ năm 1884 đến nay để dạy. Cụ thể: Trong thời kỳ thuộc Pháp (1884-1945) với tư cách là đại diện nhà nước Việt Nam về đối ngoại, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Bia chủ uyền do Pháp dựng năm 1938
Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời đã đánh dấu sự chấm dứt của Hiệp ước Pa-tơ-nốt (năm 1884). Song, lấy cớ Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thực dân Pháp tiếp tục can thiệp và đưa quân xâm lược nước ta một lần nữa. Do vậy, ở giai đoạn này, trên thực tế, Pháp vẫn thực thi quyền đại diện cho Việt Nam về đối ngoại và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ xứ “An Nam”; trong đó, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo đó, đầu năm 1947, Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp của Cộng hòa Trung Hoa ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa), Pháp đã phái thông báo hạm Tonkinois đến Hoàng Sa để yêu cầu quân đồn trú của Cộng hòa Trung Hoa rút khỏi Phú Lâm; đồng thời, cử các phân đội vũ trang đóng đồn ở Hoàng Sa, Trường Sa và quyết định lập các đài khí tượng trên hai quần đảo này. Chính phủ Pháp đã chuyển giao quyền quản lý Nam Kỳ (trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Pháp tuyên bố chiếm hữu từ năm 1933) cho quốc gia Việt Nam (chính phủ Bảo Đại). Điều đó càng thêm khẳng định, Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam (Pháp chỉ là người đại diện trong một khoảng thời gian nhất định). Đặc biệt, sau khi thực dân Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết; trong đó có quy định về ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc là vĩ tuyến 17 (Điều 1); trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử thống nhất, bên đương sự và quân đội do thỏa hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm quản lý hành chính trong khu tập kết đó (Điều 14). Theo đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (đều nằm về phía Nam vĩ tuyến 17) sẽ đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa. Thực hiện các điều khoản của Hiệp định, từ tháng 4-1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Việt Nam cộng hòa đã bắt đầu tiếp quản quyền quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Riêng đối với quần đảo Trường Sa, chính quyền Sài Gòn đã cử tàu hộ tống Trung Đông HQ04 do thuyền trưởng Trần Văn Phấn chỉ huy, ngày 22-8-1956 đã đổ bộ lên các đảo, thực hiện cắm cờ, dựng bia chủ quyền và bảo vệ quần đảo này.
Như vậy, việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1945 - 1954 là liên tục, hòa bình và phù hợp với pháp luật quốc tế.
Sau năm 1954 chính phủ Việt Nam cộng hòa đa nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời tuyên bố bác bỏ các luận cứ của Trung Quốc và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Trạm Khí tượng Thủy văn trên đảo Hoàng

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_cac_van_de_lien_quan_den_chu_quyen_cua_viet_na.doc