SKKN Tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao chất lượng phân môn Địa lý lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Trung - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa
Như chúng ta đã biết, chương trình giảng dạy ở tiểu học được chia làm hai giai đoạn. Và ngay ở đầu giai đoạn hai, các en học sinh lớp 4 đã bắt đầu được làm quen với môn học Lịch sử và địa lý. Phân môn Lịch sử có sự lôgic, hệ thống theo trục thời gian giúp các em dễ ghi nhớ, dễ hiểu mang đến cho các em niềm đam mê và thích tìm tòi sáng tạo. Còn phân môn Địa lý thì sao? Đây là môn học mới mẻ và nó được tách ra từ môn TNXH lớp 1,2,3. Hệ thống kênh chữ nhiều hơn kênh hình, ở phân môn này có nhiều từ ngữ các em mới bắt đầu làm quen như: địa hình, nét văn hóa, đồng bằng châu thổ, Hơn nữa mục tiêu của môn học này yêu cầu học sinh phải nắm được các sự vật hiện tượng và các mối quan hệ Địa lý ở các vùng miền chính trên đất nước Việt Nam.
Sự cần thiết học sinh phải tìm hiểu thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở các vùng miền khác nhau, học sinh cần có kỹ năng phân tích bản đồ, lược đồ, khai thác triệt để các kênh hình, kênh chữ trong SGK nhằm khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên), tiếp nhận kiến thức cho mình để từ đó vận dụng vào thực tế cuộc sống. Qua đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, con người và đất nước Việt Nam ta. Đó chính là những kỹ năng sống cơ bản mà một con người cần có: chủ động, tích cực và sáng tạo. Điều này sẽ giúp ngành Giáo dục đạt được mục tiêu mà nhà nước đã đặt ra là: “Đào tạo ra những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo,có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh (có kiến thức toàn diện) đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước và chuẩn bị cho tương lai”.[6]
Các kiến thức địa lý được trình bày trong sách giáo khoa thông qua kênh chữ, kênh hình là các lượt đồ, bản đồ, tranh ảnh. Tuy nhiên nếu ngày nào giáo viên cũng lên lớp giảng bài cho học sinh với những tranh ảnh tĩnh cùng với bảng đen phấn trắng thì sẽ gây nhàm chán cho học sinh và ngày càng làm cho học sinh uể oải hơn và học sinh sẽ có cảm giác sợ môn Địa lí và sẽ có tâm lý học đối phó. Hiện nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một điều tất yếu. Khi các em vừa tìm hiểu kiến thức thông qua sách giáo khoa vừa kết hợp với xem những tranh ảnh những đoạn phim sinh động thì các em sẽ hứng thú hơn.
A. MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, chương trình giảng dạy ở tiểu học được chia làm hai giai đoạn. Và ngay ở đầu giai đoạn hai, các en học sinh lớp 4 đã bắt đầu được làm quen với môn học Lịch sử và địa lý. Phân môn Lịch sử có sự lôgic, hệ thống theo trục thời gian giúp các em dễ ghi nhớ, dễ hiểu mang đến cho các em niềm đam mê và thích tìm tòi sáng tạo. Còn phân môn Địa lý thì sao? Đây là môn học mới mẻ và nó được tách ra từ môn TNXH lớp 1,2,3. Hệ thống kênh chữ nhiều hơn kênh hình, ở phân môn này có nhiều từ ngữ các em mới bắt đầu làm quen như: địa hình, nét văn hóa, đồng bằng châu thổ,Hơn nữa mục tiêu của môn học này yêu cầu học sinh phải nắm được các sự vật hiện tượng và các mối quan hệ Địa lý ở các vùng miền chính trên đất nước Việt Nam. Sự cần thiết học sinh phải tìm hiểu thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở các vùng miền khác nhau, học sinh cần có kỹ năng phân tích bản đồ, lược đồ, khai thác triệt để các kênh hình, kênh chữ trong SGK nhằm khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên), tiếp nhận kiến thức cho mình để từ đó vận dụng vào thực tế cuộc sống. Qua đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, con người và đất nước Việt Nam ta. Đó chính là những kỹ năng sống cơ bản mà một con người cần có: chủ động, tích cực và sáng tạo. Điều này sẽ giúp ngành Giáo dục đạt được mục tiêu mà nhà nước đã đặt ra là: “Đào tạo ra những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo,có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh (có kiến thức toàn diện) đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước và chuẩn bị cho tương lai”.[6] Các kiến thức địa lý được trình bày trong sách giáo khoa thông qua kênh chữ, kênh hình là các lượt đồ, bản đồ, tranh ảnh. Tuy nhiên nếu ngày nào giáo viên cũng lên lớp giảng bài cho học sinh với những tranh ảnh tĩnh cùng với bảng đen phấn trắng thì sẽ gây nhàm chán cho học sinh và ngày càng làm cho học sinh uể oải hơn và học sinh sẽ có cảm giác sợ môn Địa lí và sẽ có tâm lý học đối phó. Hiện nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một điều tất yếu. Khi các em vừa tìm hiểu kiến thức thông qua sách giáo khoa vừa kết hợp với xem những tranh ảnh những đoạn phim sinh động thì các em sẽ hứng thú hơn. Do vậy để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu song vẫn đảm bảo được mục tiêu, nội dung chương trình của môn học tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và “Tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao chất lượng phân môn Địa lý lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Trung - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa” để ứng dụng hiệu quả nhất trong quá trình dạy học. 2/ Mục đích nghiên cứu: Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa đạt tới trình độ tư duy khái quát.Vì thế tôi nghiên cứu kinh nghiệm này nhằm đạt được mục đích sau: + Tìm hiểu thực trạng dạy học phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung, Nga Sơn,Thanh Hóa. + Đề xuất một số biện pháp nhằm tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khi dạy phân môn Địa lý lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Địa lý ở Tiểu học. 3/ Đối tượng nghiên cứu: + Nội dung, chương trình phần Địa lý - môn Lịch sử và địa lý lớp 4. + Một số phương pháp dạy học phân môn Địa lý ở Tiểu học. 4/Phương pháp nghiên cứu: a/ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Để tìm hiểu rõ vấn đề tôi đã nghiên cứu kỹ những tài liệu, giáo trình có liên quan để phân tích, tổng hợp, so sánh và rút ra những vấn đề lý luận có tính định hướng. b/ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: + Nghiên cứu, điều tra qua thực tế dự giờ, phỏng vấn học sinh, giáo viên tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa để làm nền cho quá trình nghiên cứu, đề ra những giải pháp mang tính khả thi nhất. + Trao đổi, bàn bạc với giáo viên, học sinh khối 4,5 để nắm bắt thông tin về tình hình thực tế có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. + Tìm hiểu thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học khi dạy phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa từ đó phát hiện vấn đề nghiên cứu và chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo. + Trao đổi với đông nghiệp về những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4. c/ Phương pháp thông kê, xử lý số liệu: Sau khi thu thập những số liệu điều tra thực tế về đổi mới phương pháp dạy học phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa, tôi có những căn cứ để xây dựng cho mình những phương pháp, hình thức và giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Địa lý và rút ra những kết luận khách quan. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1/ Cơ sở lý luận: Đặc điểm của học sinh Tiểu học là tiềm tàng khả năng phát triển nên người giáo viên cần sáng tạo, sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ. Giáo viên cần giúp học sinh trải nghiệm và thử thách cộng với việc học tập tích cực, chủ động, tự giác trên nhu cầu hứng thú, tương tác lẫn nhau, từ đó hình thành kỹ năng, kỹ xảo để học kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ một cách có hiệu quả. Để học sinh tìm hiểu, phát hiện kiến thức và tự giác chiếm lĩnh kiến thức đó người giáo viên phải là người năng động, sáng tạo và có vốn kiến thức vững, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chuẩn bị bài và đồ dùng dạy học chu đáo, tránh việc giáo viên cung cấp thông tin và học sinh thụ động tiếp nhận thông tin. Vận dụng đổi mới phương pháp dạy học là hoàn toàn có cơ sở lý luận. Trong giờ học Địa lý đối tượng môn học làm cho giờ học không chỉ mang tính chất khoa học mà nó còn mang đậm tính chất nghệ thuật tổng hợp. Bởi vậy mà những vấn đề mà giáo viên đưa ra phải được tổ chức một cách nghệ thuật và là vấn đề càng gắn bó với nội dung thẩm mỹ của bài dạy thì càng động viên học sinh tham gia tìm hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Môn Địa lý có điều kiện thuận lợi để tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy bởi lẽ các phương tiện dạy học Địa lý rất đa dạng. Ngoài sách giáo khoa chúng ta còn cả hệ thống các thiết bị khác như: bản đồ treo tường, tranh ảnh, phim, băng hình, máy chiếu,Từ những thiết bị đó các em có công cụ để quan sát, phân tích, so sánh, nhận xét ngay trên lớp học. Vì vậy phương pháp mới là quan trọng và đạt hiệu quả cao trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp giảng dạy để học sinh tự khám phá ra chân lý thì đó là cả một quá trình. Quá trình đó chi phối mọi hoạt động của giáo viên từ khâu chuẩn bị bài dạy, đến các hình thức tổ chức dạy học trên lớp và cả việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nếu làm tốt cả 3 khâu trên nghĩa là giáo viên đã thành công trong tiết dạy. Vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Địa lý lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa. 2/ Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: a/ Thực trạng của giáo viên: + Trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, ban giám hiệu nhà trường có bề dầy kinh nghiệm về quản lý, chỉ đạo chuyên môn. Nhiều giáo viên có trình độ chuyên môn tốt, luôn có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhiều đồng chí đã đạt giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh có những sáng kiến kinh nghiệm xếp loại cấp huyện, cấp tỉnh nhiều năm và luôn là cán bộ cốt cán của trường, của phòng giáo dục. + Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy một số ít các đồng chí ngại đổi mới phương pháp, ngại ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy vì cho rằng mất thời gian, một số ít giáo viên hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức với nội dung còn sơ sài, mang tính hình thức nên hiệu quả chưa cao. + Việc đổi mới các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh còn hạn chế và chưa mạnh dạn, chưa tuyên truyền sâu rộng đến tận các bậc phụ huynh và các em học sinh nên chưa làm cho các em thực sự yêu thích phân môn Địa lý. b/Thực trạng của học sinh: + Nga Trung là vùng nông thôn, học sinh có ít điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin tại gia đình. + Học sinh chưa hứng thú khi học phân môn Địa lý nên các em không thấy được cái hay và sự thú vị của phân môn này. + Các em thiếu sự quan tâm của gia đình và điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Một số gia đình đã quan tâm chăm lo cho con em nhưng chỉ đầu tư cho con em học môn Toán, Tiếng việt, Tiếng anh và coi phân môn Địa lý là môn phụ. + Chất lượng học sinh không đồng đều, một số em nhận thức chưa cao, tiếp thu chậm. Học sinh lớp 4 lần đầu tiên được tiếp thu kiến thức mới đối với phân môn Địa lý và được làm việc với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh để tìm hiểu nội dung của bài. Do vậy các em phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng, thậm chí học sinh chưa biết chỉ đúng bản đồ, lược đồ, kỹ năng chỉ bản đồ, lược đồ còn hạn chế. + Việc quan sát các sự vật, hiện tượng địa lý, tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả bằng lời nói và cách diễn đạt còn hạn chế. + Một số học sinh chỉ học đối phó với thầy cô giáo khi kiểm tra bài cũ hoặc khi thi cuối kỳ. + Các em chưa có ý thức tự tìm hiểu, khám phá về những điều kiện tự nhiên của đất nước ta để sau này biết ứng dụng những điều kiện đã học được từ sách vở đưa vào thực tiễn lao động sáng tạo làm giàu đẹp cho quê hương. c/ Kết quả khảo sát: Kết quả khảo sát học sinh lớp 4A cuối năm học 2017 – 2018 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa do tôi phụ trách như sau: Môn học Sĩ số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % Lịch sử 28 15 53,6 13 46,4 0 Địa lý 28 08 28,6 17 60,7 03 10,7 LS&ĐL 28 10 35,7 15 53,6 03 10,7 Từ kết quả trên tôi nhận thấy rằng với hai phân môn đều do tôi trực tiếp giảng dạy nhưng kết quả phân môn Địa lý rất thấp dẫn đến kết quả đánh giá chung cho môn Lịch sử và địa lý là chưa đạt yêu cầu. Một phần cũng là do các em chưa yêu thích môn học Địa lý nên kết quả thấp. Do đó tôi luôn trăn trở là làm thế nào để học sinh thực sự yêu thích phân môn Địa lý. Để khơi dậy niềm yêu thích môn học và nâng cao chất lượng học tập phân môn Địa lý. Năm học 2018 – 2019, khi tôi được phân công chủ nhiện lớp 4B, tôi đã tiến hành điều tra cụ thể về sự hiểu biết và sự ham thích môn học. Nhằm giúp học sinh yêu thích môn học và chiếm lĩnh kiến một cách tự nhiên, hứng thú, bản thân tôi suy nghĩ cần nắm vững nội dung, phương pháp và chuẩn bị bài giảng của mình thật chu đáo, lời giảng hấp dẫn, phương pháp và hình thức tổ chức sinh động, tạo hứng thú học tập cho học sinh trong từng hoạt động và suy nghĩ phải làm gì để học sinh tiếp thu được kiến thức một cách hiệu quả nhất. Do vậy việc tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phải được áp dụng thường xuyên và có hiệu quả trong từng bài học, từng tiết dạy. 3/ Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học không chỉ mang đến cho học sinh những kiến thức cơ bản trong SGK mà còn cung cấp cho các em những kiến thức phong phú, những hình ảnh sống động, những kiến thức thực tế sâu rộng, từ đó phát huy tính tích cực, say mê và hứng thú học tập. Đó là bước đột phá trong việc cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học, tránh lối học theo kiểu truyền thống: thầy đọc, trò chép một cách thụ động. Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4 và tổ chức thành công các phương pháp và hình thức dạy học bản thân tôi đã thực hiện một số giải pháp sau: 3.1/ Làm sống động các bản đồ, lược đồ trong SGK, khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ: Trong chương trình Địa lý lớp 4 có tất cả 20 lược đồ. Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học bản đồ, lược đồ và bảng số liệu được sử dụng như một nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và hình thành, rèn luyện kỹ năng bộ môn chứ không phải chỉ để minh họa cho lời dạy của giáo viên. Như vậy bản đồ, lược đồ và bảng số liệu là những đối tượng để học sinh chủ động, tự lực đển mức tối đa, khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các bản đồ, lược đồ trong SGK đều có màu sắc rất đẹp, phong phú về chủng loại. Tuy nhiên các bản đồ, lược đồ này đều là các tranh tĩnh, rất nhỏ, khi khai thác và tìm hiểu kiến thức các em đều rất khó, trừu tượng dẫn đến việc tiếp thu kiến thức rất hời hợt, không khắc sâu. Nhưng khi các bản đồ, lược đồ này được đưa vào giáo án điện tử, lập các hiệu ứng phù hợp với trình tự tìm hiểu nội dung kiến thức sẽ trở thành các bản đồ, lược đồ sống động, tạo sự hứng thú, sinh động, hấp dẫn học sinh và học sinh sẽ tiếp thu kiến thức một cánh nhẹ nhàng, tự nhiên, chủ động và nhớ kiến thức lâu hơn. Ví dụ 1: Khi dạy bài 17: Đồng bằng Nam Bộ – SGK trang 116, 117: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc điểm tiêu biểu về mạng lưới sông ngòi ở đồng bằng Nam Bộ. Trong SGK yêu cầu các em quan sát hình 2: Lược đồ tự nhiên đồng bằng Nam Bộ và trả lời các câu hỏi: + Tìm và kể tên một số sông lớn, kênh rạch của đồng bằng Nam Bộ. + Nêu nhận xét về mạng lưới sông ngòi, kênh rạch của đồng bằng Nam Bộ. Học sinh rất khó tiếp cận lĩnh hội kiến thức vì chữ quá nhỏ và rất trừu tượng đối với các em. Nhưng khi tôi làm sống động lược đồ này được trình chiếu trên máy, yêu cầu học sinh quan sát và thảo luận nhóm đôi để tìm hiểu thì lại khác. Khi học sinh báo cáo kết quả thảo luận, giáo viên trình chiếu để chốt kiến thức: Khi các hiệu ứng chạy, học sinh sẽ nhìn thấy dòng chảy của sông Mê Công, về đến Việt Nam thì chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, sau đó đến sông Đồng Nai, Kênh Vĩnh Tế, Kênh Rạch Sòi, Kênh Phụng Hiệp. Từ đó học sinh dễ dàng nhận ra: Đồng bằng Nam Bộ có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc và chằng chịt. Để mở rộng và khắc sâu kiến thức về tên sông Cửu Long (chín con rồng), tôi cho học sinh quan sát lược đồ, sau đó khi trình chiếu và cho chạy các hiệu ứng học sinh dễ dàng nhận ra dòng chảy của sông Mê Công về đến Việt Nam thì chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, hai nhánh sông này đổ ra biển bằng chín cửa sông nên có tên gọi là Cửu Long (chín con rồng). Ví dụ 2: Khi dạy bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ – SGK trang 98: Ở hoạt động 1: Sau khi học sinh tìm hiểu về đặc điểm tiêu biểu về vị trí địa lý, địa hình của đồng bằng Bắc Bộ giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ và kể tên các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ để mở rộng và khắc sâu kiến thức cho học sinh. Học sinh có năng khiếu có thể lên chỉ vị trí giới hạn của các tỉnh từ đó rèn thêm kỹ năng chỉ bản đồ cho học sinh. Ví dụ 3: Khi dạy bài 31,32: Ôn tập – SGK trang 155, 156: Giáo viên sử dụng bản đồ sau để ôn lại các đặc điểm, vị trí, giới hạn của các vùng địa lý đã học: Vùng đồng bằng Bắc Bộ (màu đỏ); đồng bằng Nam Bộ (màu xanh dương); đồng bằng duyên hải Miền Trung (màu xanh lá); các cao nguyên ở Tây Nguyên; dãy Hoàng Liên Sơn; Với hình thức dạy học này có thể sử dụng để dạy các bài: + Bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn. + Bài 5: Tây Nguyên. + Bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ. + Bài 15: Thủ đô Hà Nội. + Bài 21: Thành phố Hồ Chí Minh. + Bài 23: Ôn tập. + Bài 24: Đồng bằng duyên hải Miền Trung. + Bài 29: Biển, đảo và quần đảo. Để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ đạt hiệu quả, giáo viên cần: + Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua bản đồ, lược đồ sao cho phù hợp để học sinh có thể sử dụng kiến thức kỹ năng đã học tự phát hiện ra kiến thức mới. + Soạn một hệ thống câu hỏi dựa trên lược đồ và trình độ học sinh để dẫn dắt học sinh tự khám phá kiến thức. Các câu hỏi thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tự luận, trắc nghiệm (câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn,). Ngoài ra, Địa lý là một phân môn mới mẻ đối với học sinh lớp 4 nên học sinh phải được trang bị một số kiến thức tối thiểu, cần thiết để biết cách làm việc với bản đồ, lược đồ như: xác định phương hướng trên bản đồ, lược đồ; nắm được ký hiệu trong bảng chú giải và có biểu tượng về những sự vật và đối tượng địa lý trên bản đồ, lược đồ. Từ đó các em xác lập mối liên hệ địa lý đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần như địa hình và khí hậu; sông ngòi, thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người. Trên cơ sở học sinh biết kết hợp những kiến thức bản đồ, lược đồ và kiến thức địa lý để so sánh, phân tích, tổng hợp. Như vậy, khi các em tìm hiểu kiến thức qua những hình ảnh sống động không những các em sẽ nhớ rất lâu kiến thức mà còn nâng cao kỹ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, giúp các em tự tin hơn, kích thích hứng thú học tập cho học sinh và trong lớp ai ai cũng muốn thể hiện khả năng học tập của mình, rèn kỹ năng ứng xử mạnh dạn, trình bày lưu loát trước đám đông. 3.2/ Sưu tầm các tư liệu thực tế, tạo dựng các đoạn phim ngắn: Trong chương trình Địa lý lớp 4, ngoài việc tìm hiểu những kiến thức về địa hình, khí hậu, đặc điểm tự nhiên tiêu biểu của vùng miền núi, trung du, đồng bằng, miền duyên hải trên đất nước Việt Nam các em còn được tìm hiểu những phong tục tập quán của các vùng đó, các điều kiện phát triển kinh tế, thương mại du lịch. Nếu chỉ được quan sát những hình ảnh trong SGK và tìm hiểu qua kênh chữ thì không thể thu hút trì tò mò, óc tìm tòi khám phá đất nước Việt Nam của học sinh. Vì vậy tôi thiết nghĩ bằng những tư liệu thực tế sống động về đất nước, con người, phong tục tập quán,của những vùng đang học được đưa vào bài giảng điện tử sẽ khiến giờ học trở nên hấp dẫn, các em như đang được đi du lịch, tham quan những nơi đó. Như vậy các em sẽ rất hứng khởi, hồi hộp chờ đợi được đến tiết học Địa lý để được tham gia vào quá trình tìm hiểu nội dung bài. Ví dụ 1: Khi dạy bài 4: Trung du Bắc Bộ – SGK trang 79, 80: Ở hoạt động1: Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trên máy chiếu để mô tả vùng Trung du Bắc Bộ và những loại cây trồng thích hợp được trồng ở vùng trung du Bắc Bộ: Trung du Bắc Bộ là vùng đồi với các đỉnh tròn, sườn thoải. Thế mạnh ở đây là trồng cây ăn quả và cây công nghiệp, đặc biệt là trồng chè. + Ở hoạt động này giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi: Em là hướng dẫn viên du lịch để nêu những hiểu biết của em về vùng Trung du Bắc Bộ.Trong quá trình học sinh nêu giáo viên kết hợp trình chiếu đoạn video khớp với lời nói của học sinh tạo hứng thú, thu hút học sinh vào học tập. Ví dụ 2: Khi dạy bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn – SGK trang 70,71: Giáo viên cho học sinh quan sát các bức tranh sau để nêu đặc điểm của dãy núi Hoàng Liên Sơn: Là dãy núi cao, đồ sộ nhất nước ta, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp và sâu. Có đỉnh Phan – xi – păng cao nhất nước ta (cao 3143m) và được gọi là “nóc nhà” của Tổ quốc. Ví dụ 3: Khi dạy bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn – SGK trang 70,71: Sau khi được quan sát những hình ảnh thực tế này học sinh sẽ nêu được đặc điểm khí hậu ở Hoàng Liên Sơn: Những nơi cao khí hậu lạnh quanh năm, mùa đông đôi khi có tuyết rơi, nhưng lại là nơi du lịch nổi tiếng với đỉnh Phan - xi - păng rất lý tưởng ở vùng núi phía Bắc. Ví dụ 4: Khi dạy bài 20: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Nam Bộ (tiếp theo) – SGK trang 124, 125: Học sinh sẽ được quan sát hình ảnh chợ nổi trên sông – nét văn hóa của dân Nam Bộ. Sau đó học sinh sẽ được nghe một đoạn Video giới thiệu về hoạt động của chợ nổi Cái Răng – Cần Thơ: “Chợ nổi Cái Răng nằm trên sông Cái Răng, gần cầu Cái Răng, cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 6km đường bộ và mất 30 phút nếu đi bằng thuyền từ bến Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ - thủ phủ của Tây Đô cũ). Đay là một nét văn hóa rất đặc sắc ở vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, thu hút rất nhiều du khách, đặc biệt là khách nước ngoài. Nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chợ hoạt động tấp nập từ tờ mớ sáng với nhiều lọai thuyền bè lớn nhỏ. Các cửa hàng hay các ghe thuyền thường không có bảng hiệu, chợ bán sản vật gì người ta treo sản vật đó lên cây sào hoặc trên mũi thuyền. Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8;9 giờ thì vãn. Những ghe bầu lớn thường chuyên thu mua trái cây để chở đi các
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_cuc_hoa_cac_phuong_phap_va_hinh_thuc_to_chuc_day_h.doc