SKKN Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954

SKKN Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954

Lòng yêu quê hương đất nước là biểu hiện quan trọng nhất của lòng yêu nước chân chính. Ngay từ thuở bé, mỗi chúng ta ai lớn lên thì những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ. đã sớm in sâu vào tâm trí, đã làm tăng thêm lòng yêu quê hương da diết và tri thức ban đầu về quê hương. Vì vậy các tiết học về lịch sử địa phương ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên xã hội của quê hương trên mọi lĩnh vực.

Chúng ta biết rằng bất cứ một sự kiện hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa phương vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của địa phương đó. Có những sự kiện hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng có những sự kiện hiện tượng mà tác động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia. Ngay từ thời cổ địa, Xixirôn-một nhà chính trị gia nổi tiếng của La mã đã nói:”Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”.Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương xứ sở, nơi chôn rau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Chính Bác Hồ kính yêu đã dạy rằng:

”Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích sử nhà Việt Nam”

Như vậy dạy lịch sử địa phương là một trong nhiều phương tiện để góp phần làm giàu sự hiểu biết của học sinh về quê hương, bồi dưỡng tình cảm ý thức trách nhiệm của học sinh với quê hương mình.

 

doc 18 trang thuychi01 6842
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Lòng yêu quê hương đất nước là biểu hiện quan trọng nhất của lòng yêu nước chân chính. Ngay từ thuở bé, mỗi chúng ta ai lớn lên thì những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ... đã sớm in sâu vào tâm trí, đã làm tăng thêm lòng yêu quê hương da diết và tri thức ban đầu về quê hương. Vì vậy các tiết học về lịch sử địa phương ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên xã hội của quê hương trên mọi lĩnh vực.
Chúng ta biết rằng bất cứ một sự kiện hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa phương vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của địa phương đó. Có những sự kiện hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng có những sự kiện hiện tượng mà tác động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia. Ngay từ thời cổ địa, Xixirôn-một nhà chính trị gia nổi tiếng của La mã đã nói:”Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”.Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương xứ sở, nơi chôn rau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Chính Bác Hồ kính yêu đã dạy rằng:
”Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích sử nhà Việt Nam”
Như vậy dạy lịch sử địa phương là một trong nhiều phương tiện để góp phần làm giàu sự hiểu biết của học sinh về quê hương, bồi dưỡng tình cảm ý thức trách nhiệm của học sinh với quê hương mình.
2. Cơ sở thực tiễn:
Ở nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương với tư cách là một ngành khoa học được bắt đầu từ sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, tuy nhiên việc dạy lịch sử địa phương chưa được tiến hành đều khắp trong phạm vi cả nước, chất lượng dạy và học chưa đạt như mong muốn.
Với quê hương Thanh Hoá, trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ nền độc lập dân tộc (1946-1954), Thanh Hoá là một trong những hậu phương lớn. Từ nơi đây, tiềm lực về sức người và sức của đã được chi viện tối đa cho tiền tuyến. Hậu phương Thanh Hoá đã từng bước giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến, thúc đấy nhiệm vụ tác chiến bảo vệ hậu phương, xây dựng lực lượng và phục vụ tiền tuyến. Để làm tốt nghĩa vụ hậu phương, quân dân Thanh Hoá vừa lo xây dựng, vừa phải tiến hành công cuộc bảo vệ hậu phương. Các lực lượng vũ trang ở đây đã đánh hàng trăm trận lớn nhỏ với nhiều loại hình tác chiến đa dạng phong phú ở mọi địa hình khác nhau để bảo vệ được hậu phương Thanh Hoá. Lâu nay Thanh Hoá chỉ biết đến là một hậu phương chi viện mà chưa thấy được công cuộc bảo vệ hậu phương hết sức anh dũng trong kháng chiến chống Pháp. Chính vì lẽ đó trong giảng dạy phần lịch sử địa phương ở lớp 12 THPT, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến cũng là một đóng góp nhỏ về việc giảng dạy phần lịch sử địa phương “Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954” để góp phần trong việc động viên các thế hệ trẻ Thanh Hoá phát huy truyền thông quê hương, ghi nhớ công lao và sự hinh sinh của các thế hệ người đi trước để xây dựng quê hương ngày càng phát triển.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay, trong giảng dạy phần lịch sử địa phương ở lớp 12 THPT tuỳ ở từng trường cụ thể mà nội dung này giảg dạy sẽ thống nhất ở một vấn đề cụ thể gì. Riêng nội dung “Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954” là một vấn đề mới, nội dung này mới chỉ được đề cập rải rác, chưa ở góc độ chuyên sâu-chỉ chung chung ở các công trình công bố sau:
+ “Thanh Hoá - Lịch sử kháng chiến chống Pháp xâm lược 1946 - 1954” Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hoá biên soạn xuất bản 1990.
+ “Lịch sử Thanh Hoá” do 2 tác giả Nguyễn Tri Phương - Trần Văn Lưu chủ biên - NXB Thanh Hoá 1986.
+ “Lịch sử Thanh hoá” do Hoàng Thanh Hải và Vũ Quí Thu chủ biên -NXB Thanh hoá 1996
+ “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá“ tập 1- do Tỉnh uỷ Thanh Hoá tổ chức biên soạn xuất bản 1999 - 2000.
+ “Những trận đánh của lực lượng vũ trang Thanh Hoá 1945 - 1975”. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh - Nhà xuất bản QĐND 2005.
+ Ngoài ra còn có lịch sử lịch sử Đảng bộ các huyện, các bài viết về địa phương Thanh Hoá trên báo chí Thanh Hoá, tạp chí nghiên cứu lịch sử...
Song mức độ đề cập về giảng dạy “Công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954” còn khác nhau, vẫn chỉ nhìn nhận vai trò hậu phương của Thanh Hoá mà chưa thấy được công cuộc bảo vệ hậu phương của địa phương đó. Đây là một vấn đề mới để giảng dạy cho học sinh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng và củng cố quốc phòng an ninh ở Thanh Hoá hôm nay.
III. ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, PHẠM VI NGHIÊN CỮU
- Chương trình lịch sử lớp 12, cụ thể là phần lịch sử địa phương - Tiết dạy 43 thuộc học kì II.
- Tiến hành nghiên cứu kĩ công trình SGK, sưu tầm tập hợp tất cả những phần tư liệu lịch sử địa phương có liên quan đến nội dung tiết dạy.
- Thiết lập tiết giảng cụ thể về thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954 àm chú trọng là ở nội dung của công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá.
IV. NGUỒN TƯ LIỆU
- Chủ yếu là tài liệu lưu trữ.
V. ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIẾN
- Thông qua tiết dạy cụ thể đã khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954, từ đó học sinh thấy được vai trò to lớn cuả Thanh Hoá - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Rút ra bước đầu những bài học kinh nghiệm về công cuộc bảo vệ hậu phương góp phần giáo dục thêm truyền thống yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lòng tự hào của nhân dân Thanh Hoá, ý chí tự cường cho thế hệ trẻ.
VI. BỐ CỤ SÁNG KIẾN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục - nội dung chính của sáng kiến kinh nghiệm thể hiện 3 phần.
1. Những yêu cầu cụ thể trong giảng dạy lịch sử địa phương
2. Khái quát về công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá 1946-1954.
3. Gợi ý giảng dạy- đề xuất 1 tiết dạy cụ thể và kết quả thực hiện.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG YÊU CẦU CỤ THỂ TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
Cần thấy rằng trong giảng dạy lích sử địa phương là một trong nhiều phương tiện để góp phần làm giàu sự hiểu biết của học sinh về quê hương.Trên cơ sở đó giáo giục cho thế hệ trẻ lòng tự hào và yêu quý quê hương, đất nước, lòng yêu quê hương chính là cội nguồn lòng yêu tổ quốc.Trong bối cảnh lịch sử hiện nay cả nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước để phát triển theo định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa phải vượt qua muôn trùng khó khăn thử thách. 
Thông qua việc giảng dạy lịch sử địa phương nâng cao sự hiểu biết của học sinh về kiến thức lịch sử địa phương phong phú và quý giá. Chính những kiến thức đó có ngay xung quang các em,các em bắt gặp tiếp xúc thường xuyên nhưng học sinh chưa hiểu được hoặc chưa có ai giảng giải để hiểu tường tận về ý nghĩa nội dung từng sự kiện lịch sử.
Khi biên soạn một bài giảng lịch sử địa phương vừa phải chú ý trình bày đầy đủ các giai đoạn phát triển của lịch sử điạ phương đó trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,văn hoá, xã hội...Vừa phải làm rõ được mối liên hệ giữa địa phương với lịch sử cả nước. Từ đó học sinh mới thấy được những quy luật chung của quá trình phát triển lịch sử dân tộc và những nét đặc trưng của lịch sử địa phương mình. Thấy được lịch sử quê hương đã gắn bó và đóng góp tích cực vào lịch sử dân tộc, tăng thêm tự hào về truyền thống quê hương. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho các em vận dụng những tri thức học được vào thực tiễn cuộc sống cũng như đóng góp vào việc tham gia sưu tầm tài liệu biên soạn lịch sử địa phương và xây dựng phòng truyền thống.
Bố cục nội dung một bài giảng lịch sử địa phương có thể bao gồm các phần, mục, ý chính sau đây:
1. Bối cảnh lịch sử diễn ra các sự kiên kịch sử ở địa phương.
2. Diễn biến cụ thể của các sự kiện lịch sử địa phương.
Việc soạn bài lịch sử địa phương không chỉ là kết quả nghiên cứu lao động khoa học của giáo viên mà còn là công sức của giáo viên,học sinh trong tổ chuyên môn, trong trường. Bài giảng lịch sử điạh phương là một tiết học chính khoá với đầy đủ các yêu cầu của nó thông qua giảng dạy lịch sử địa phương giáo dục học sinh lòng tự hào, yêu quê hương xứ sở của mình.
II. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG CUỘC BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG THANH HOÁ 1946 - 1954
1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội.
1.1. Vị trí điạ lí:
Tiếp giáp giữa miền Bắc và miền Trung, Thanh Hoá là một trong những tỉnh lớn có quá trình hình thành lâu đời trong giải đất Việt Nam. Thanh Hoá nằm ở vĩ độ 19,23 - 20,30 vĩ độ Bắc và 104,25 - 106,30 kinh độ Đông, có diện tích tự nhiên 11.168 km2 và 18.760 km2 vùng thềm lục địa. Phía Bắc Thanh Hoá giáp 3 tỉnh: Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình, với đường gianh giới dài 175 km. Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Nghệ An với đường ranh giới 160 km. Phía Tây Thanh Hoá nối liền với tỉnh Hủa Phăn - Nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với đường biên giới từ Bát Mọt đến Nậm Xín dài 192 km. Phía Đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ với bờ biển dài 102 km và một thềm lục địa rộng 18.000 km vuông. Phần đất liền của Thanh Hoá chạy dài theo chiều từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Điểm cực Bắc của xã Trung Sơn, phía Đông Bắc của huyện Quan Hoá (giáp tỉnh Hoà Bình). Điểm cực nam ở xã Hải Hà gần bờ biển của huyện Tĩnh Gia (giáp tỉnh Nghệ An). Điểm cực Tây là núi Pha Long, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát (giáp Lào). Điểm cực Đông ở xã Nga Điền, Nga Sơn (giáp Ninh Bình).
1.2. Điều kiện tự nhiên:
Thanh Hoá có mạng lưới giao thông phát triển khá hoàn chỉnh. Việc giao lưu của Thanh Hoá với các tỉnh trong nước và nước ngoài rất dễ dàng.
Thanh Hoá có hệ thống sông ngòi dày đặc với 5 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Chu, sông Mã, sông Yên, sông Trang.
Thanh Hoá được xem là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam có đầy đủ các dạng địa hình:vùng núi cao, vùng đồng bằng, bãi bồi, cồn cát, ruộng, vùng ven biển, các đảo ven biển và ngoài khơi.
1.3. Điều kiện xã hội:	
Thanh Hoá là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống: dân tộc Kinh, Mường, Thái, H’Mông, Khơ Mú, Tày, Dao... Trong đó người Kinh chiếm đa số dân cư (Hơn 85% dân số), số dân Thanh Hoá chiếm 4,66% số dân cả nước.
Nhân dân Thanh Hoá có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền thống chống giặc ngoại xâm oanh liệt trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, Thanh Hoá là căn cứ, hậu phương, là nơi dấy binh của các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Chính trên mảnh đất này đã sản sinh ra những người con ưu tú - những anh hùng dân tộc như Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê lợi.... trong dòng cháy của lịch sử đến ngày 29/7/1930, Đảng bộ Thanh Hoá được thành lập đã lãnh đạo phong trao cách mạng ở Thanh Hoá, giương cao ngọn cờ đấu tranh cách mạng giành độc lập tự do.
2.Sự ra đời của hậu phương Thanh Hoá:
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, đến tháng 9/1940 quân Nhật kéo vào Đông Dương,từ đây nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” áp bức bóc lột của đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá nhân dân Thanh Hoá đã anh dũng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền được mở đầu là huyện Hoằng Hoá. Từ ngày 19-21/8/1945 tất cả các huyện đồng bằng, thị xã và 2 huyện miền núi đã giành được chính quyền về tay nhân dân.
Trong những tháng ngày đầu tiên mới giành được chính quyền ta gặp muôn vàn những khó khăn của thù trong giặc ngoài cùng câu kết chống phá thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân lâm thời tỉnh hết sức bình tĩnh, cảnh giác, kiên quyết đấu tranh phá tan âm mưu của địch, bảo vệ được thành quả cách mạng.
Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Nam bộ với âm mưu mở rộng xâm lược nước ta một lần nữa, nguy cơ cuộc chiến tranh lan rộng đang đến gần. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã kịp thời với tình hình mới, tích cực chuẩn bị lực lượng vũ trang sẵn sàng đối phó với âm mưu của Pháp.
Đêm 19/12/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Tỉnh Thanh Hoá lúc này đang là vùng tự do không có quân giặc đóng giữ nhưng trên thực tế, hiệp định không được thực hiện nghiêm chỉnh do chính sách phản bội của thực dân Pháp. Tại thị xã Thanh Hoá quân Tưởng đổ bộ một trung đoàn vào chiếm đóng các vị trí quan trọng trong nội thành và dải quân bố trí các ngã đường ra vào tỉnh lị. Đứng trước nguy cơ xâm lược cuả thực dân Pháp, Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá phải đề cao cảnh giác, nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện triệt để phá hoại, kiên quyết chiến đấu bảo vệ vững chắc quê hương, nhất là các vùng trọng điểm xung yếu là thượng du và các vùng ven biển. Đồng thời từng bước xây dựng Thanh Hoá trở thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến. Công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành một bản anh hùng ca của quê hương con người Thanh Hoá, góp phần to lớn vào thằng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung của dân tộc.
3. Công cuộc bảo vệ hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954:
3.1. Xây dựng hậu phương Thanh Hoá:
Vùng tự do Thanh Hoá được xác định là một vùng chiến lược quan trọng.cùng với Nghệ An, Hà Tĩnh trở thành hậu phương quan trong của cuộc kháng chiến chống Pháp.Việc xây dựng hậu phương ổn định vững mạnh về mọi mặt trở thành một nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ quân dân Thanh Hoá. Vì vậy ngay từ đầu cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, quân dân Thanh Hoá đã đẩy mạnh xây dựng phát triển nền kinh tế toàn diện, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố vững chắc, các lĩnh vực văn hoá giáo dục y tế đạt được nhiều kết quả. Đảng bộ đã nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang với 3 thứ quân, bên cạnh đó các đơn vị công an nhân dân, các đội trinh sát, lực lượng an ninh bí mật cũng được thành lập bảo vệ đắc lực chính quyền cách mạng.
Thanh Hoá đã trở thành một hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống Pháp của cả nước nói chung.
3.2. Bảo vệ hậu phương Thanh Hoá:
Nắm vững chủ trương của Trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ Thanh Hoá tăng cường công tác chỉ đạo quân sự, đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm bằng việc xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân tạo điều kiện thuân lợi huy động toàn bộ sức mạnh của nhân dân trong tỉnh than gia đập tan mọi cuộc tiến công của thực dân Pháp. Với 2 mặt trận chính là miền Tây và miền biển.Từ năm 1948, Pháp đã đánh Thanh Hoá một cách toàn diện và mạnh mẽ hơn, chúng dùng cả thuỷ, lục, không quân. Đặc biệt chú ý là chúng càn quét để vơ vét của cải,phá hoại hậu phương của ta. Xác định miền Tây Thanh Hoá có vị trí đặc biệt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời những chiến thắng ở miền Tây có tác dụng ngăn cản mọi bước tiến của quân tù để phá hoại hậu phương Thanh Hoá, tích cực chi viện cho tiền tuyến.Vì vậy khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng” là nhằm để tập trung sự chỉ đạo xây dựng, bảo vệ miền Tây - địa bàn chiến lược quan trọng của Thanh Hoá và cách mạng Lào. Trận đánh lớn nhất của quân dân Thanh Hoá ở mặt trận miền Tây năm 1948 là trận tập kích đồn Poọng Nưa của tiểu đoàn bộ binh 337 Hồi Xuân thuộc trung đoàn 77. Trận đánh này làm lung lay ý chí chiến đấu của địch, làm ngăn cản bước tiến của quân thù bảo vệ hậu phương Thanh Hoá. Đến ngày 30/3/1950,quâ dân ta san phẳng đồn Mường Xía, miền Tây Thanh Hoá được giải phóng hoàn toàn, lực lượng vũ trang Thanh Hoá với hàng trăm trận lớn nhỏ ở cả 2 mặt trận miền Tây và miền biển đã làm tiêu hao nhiều sinh lực địch trấn áp các cuộc bạo loạn phản cách mạng và hoạt động gián điệp, đập tan cơ sở chính trị nội phản của chiến tranh xâm lược đế quốc bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hoá.
Từ năm 1950, trước sự thay đổi của tình hình mới của cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung, vùng tự do Thanh Hoá cùng Nghệ An, Hà tĩnh là địa bàn chiến lược quan trọng, trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt và toàn diện của kẻ địch.
Thanh Hoá được chia thành 5 khu vực tác chiến và thành lập ở mỗi khu vực một ban tác chiến để kịp thời tổ chức lực lượng và chỉ huy đánh địch bảo vệ địa bàn.
Được sự lãnh đạo kịp thời của tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, được thắng lợi của quân dân miền Tây cổ vũ, quân dân Thanh Hoá càng quyết tâm mạnh mẽ trong việc bảo vệ hậu phương trước những âm mưu mới của địch, các trận chống càn, các trận tiểu phỉ trừ gian cảu lực lượng vũ trang ta diễn ra với địch hết sức ác liệt nhằm bảo vệ hậu phương, điển hình là trận chống càn của quân dân Nga Sơn (26-28/3/1953).
Cuốí tháng 8 năm 1954 quân dân ta tổ chức đánh vào sào huyệt cuối cùng của phỉ tai Mường Pao và Sầm Tớ thắng lợi, bắt sống 1083 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng.
Trong suốt 9 năm của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, công cuộc bảo vệ hậu phương của Thanh Hoá đã vượt lên muôn vàn khó khăn gian khổ đánh địch từ nhiều hướng với 1456 trận lớn nhỏ. Loại khỏi vòng chiến đấu 5717 tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược,quân trang quân dụng, trải qua hơn 3000 ngày đêm chiến đấu, quân dân Thanh Hoá cùng quân dân cả nước giành nhiều thắng lợi bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hoá.
Với khả năng nhân lực 1,6 triêụ người, 148 ngàn ha đất canh tác và các thế mạnh kinh tế của biển, của rừng đã cung cấp 57% tổng số nhu cầu cho chiến dịch Quang Trung, 70% cho chiến dịch Điện Biên Phủ, suốt cuộc kháng chiến, 56.792 thanh niên đi bộ đội phục vụ 34.177.233 ngày công làm cầu đường và tiếp tế vận tải, trung bình cứ mỗi nhân khẩu có 33 ngày phục vụ tiền tuyến. Đồng bào Thanh Hoá đảm bảo nuôi dưỡng thường xuyên 2-3 sư đoàn chủ lực của bộ, của liên khi IV về nghỉ ngơi, huấn luyện trước và sau mỗi chiến dịch, bảo đảm nơi ăn ở, sản xuất và sinh sống cho hàng chục vạn đồng bào tản cư, thương binh từ các chiến trường chuyển về. Điển hình trong chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn tỉnh đã huy động 3.530 xe đạp thồ, bằng 1/3 cả chiến dịch, 1.126 thuyền các loại, bằng 1/10 cả chiến dịch,31 xe ô tô,180 xe bò,42 ngựa và voi thồ hàng. Toàn tỉnh đã vận chuyển 10 ngàn tấn tạo và súng đạn để bộ đội ăn no đánh thắng. Thanh Hoá đã cung cấp cho chiến dịch 4.361 tấn gạo, 355 tấn thực phẩm,2000 con lợn,325 con trâu bò.... Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Thanh Hoá đã hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến và góp phần vào chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ.
III. GỢI Ý GIẢNG DẠY ĐỀ XUẤT MỘT GIÁO ÁN CỤ THỂ
Tiết 43 - Lịch sử địa phương.
Tên bài dạy “Thanh Hóa với công cuộc bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954”
1. Mục tiêu
Học xong bài này học sinh cần:
1.1. Kiến thức:
- Hiểu được từ xưa Thanh Hoá đã từng là hậu phương căn cứ địa trong nhiều cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ, Thanh Hoá là hậu phương,căn cứ địa của chiến trường chính Bắc Bộ, Tây Bắc, Việt Bắc và một phần nước Lào anh em. Thanh Hoá đã phải đối diện với nhiều âm mưu chống phá của thực dân Pháp và các thế lực phản động.
- Thấy được vị trí của Thanh Hoá trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như diễn biến một số trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Thanh Hoá trong công cuộc bảo vệ hậu phương 1946 - 1954.
- Thấy được những đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến của hậu phương Thanh hoá trong thời kì này.
1.2. Kĩ năng:
- Bồi dưỡng kĩ năng phân tích đánh giá tổng hợp, so sánh... sự kiện lịch sử.
- Rèm luyện kĩ năng sử dụng SGK, tài liệu tham khảo, quan sát tranh ảnh bản đồ để nhận thức đánh giá sự kiện lịch sử.
1.3. Thái độ tư tưởng:
- Nhận thức rõ âm mưu, hành động phá hoại hậu phương Thanh Hoá của thực dân Pháp. Từ đó giáo dục học sinh lòng căm thù thực dân Pháp.
- Củng cố lòng tin của thế hệ trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng.
- Giáo dục lòng yêu quê hương tự hào về truyền thống quê hương.	
2. MỘT SỐ KHAI NIỆM THUẬT NGỮ LỊCH SỬ CƠ BẢN 
- “Hậu phương kháng chiến”: là vùng giải phóng của một nước có nhiệm vụ kết hợp chặt chẽ với chiến trường , làm cơ sở cung cấp sức mạnh về vật chất, quân sự và cổ vũ tinh thần cho lực lượng chiến đấu ngoài mặt trận, ở nước ta, hậu phương kháng chiến hình thành từ trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), sau đó được tiếp tục hình thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Pháp một phần là nhờ có hậu phương vững chắc.
3. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC CHỦ YẾU
- Lược đồ, tranh ảnh về những chiến dịch bảo vệ hậu phương Thanh Hoá trong g

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_thanh_hoa_voi_cong_cuoc_bao_ve_hau_phuong_trong_khang_c.doc