SKKN Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11

SKKN Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11

Câu nói của một triết gia nổi tiếng “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khoa học” đã như ánh sáng soi đường cho nhân loại để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay. Nên phương tiện hết sức cần thiết để đi đến nhận thức là dụng cụ trực quan.

Tích cực hóa hoạt động của học sinh là hướng dạy học hiện nay, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển kiến thức của mình bằng các đồ dùng trực quan, nên đồ dùng trực quan trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình dạy học. Vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng phong phú giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận kiến thức.

 Công nghệ là một môn học ứng dụng không chỉ cung cấp thông tin kiến thức mà còn là môi trường tốt để các em khám phá, tìm tòi những mảng kiến thức thực tế thú vị. Đồng thời ở đó các em sẽ tìm thấy sở thích của bản thân giúp cho công tác định hướng nghề nghiệp sau này. Nên việc giáo viên bộ môn biết tìm tòi sáng tạo và có những phương pháp giảng dạy linh hoạt thì vẫn đem lại hiệu quả cao và gây nhiều hứng thú cho học sinh.

Từ những nội dung trên tôi đã lựa chọn đề tài “ Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài : Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11”.

 

doc 38 trang thuychi01 6341
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. Mở đầu.....Trang 1 1.1. Lý do chọn đề tài......Trang 1 1. 2. Mục đích nghiên cứu......Trang 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu.........Trang 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu........Trang 2 1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết.......Trang 2 1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn...Trang 2
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm....Trang 2 
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm..Trang 2
2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan...Trang 2
2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan......Trang 3
2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan..Trang 3
2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học trực quan...Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..Trang 4
2.3. Sử dụng phương pháp trực quan.Trang 5
2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản.Trang 5
2.3.2. Áp dụng phương pháp dạy học trực quan....Trang 13
2.4. Những kết quả ban đầu.....Trang 18
III. Kết luận, kiến nghị..Trang 19
3.1. Kết luận...Trang 19
3.2. Kiến nghị.....Trang 20
I. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài.
Câu nói của một triết gia nổi tiếng “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khoa học” đã như ánh sáng soi đường cho nhân loại để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay. Nên phương tiện hết sức cần thiết để đi đến nhận thức là dụng cụ trực quan.
Tích cực hóa hoạt động của học sinh là hướng dạy học hiện nay, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển kiến thức của mình bằng các đồ dùng trực quan, nên đồ dùng trực quan trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình dạy học. Vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng phong phú giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận kiến thức.
 Công nghệ là một môn học ứng dụng không chỉ cung cấp thông tin kiến thức mà còn là môi trường tốt để các em khám phá, tìm tòi những mảng kiến thức thực tế thú vị. Đồng thời ở đó các em sẽ tìm thấy sở thích của bản thân giúp cho công tác định hướng nghề nghiệp sau này. Nên việc giáo viên bộ môn biết tìm tòi sáng tạo và có những phương pháp giảng dạy linh hoạt thì vẫn đem lại hiệu quả cao và gây nhiều hứng thú cho học sinh. 
Từ những nội dung trên tôi đã lựa chọn đề tài “ Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài : Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11”.	
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn khoa học, đề xuất nội dung và các biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học trực quan có hiệu quả.
	- Nghiên cứu những tiền đề lí thuyết và thực tiễn khoa học làm cơ sở cho việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
	- Đề xuất nội dung và cách thức sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
	- Tiến hành thực nghiệm để đánh giá khả năng thực thi và hiệu quả của những đề xuất. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề xuất phương pháp trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết.
	- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
	- Phương pháp thống kê, phân loại.
1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn. 
	- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
	- Phương pháp thực nghiệm.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở lứa tuổi THPT các em luôn muốn khám phá những điều mới lạ, muốn tự mình tìm ra những điều mình còn thắc mắc trong quá trình nhận thức. Các em có khả năng điều chỉnh các hoạt động của mình trong đó có hoạt động học tập, sẵn sàng tham gia các hoạt động khác nhau nhưng cần phải có sự hướng dẫn, điều chỉnh một cách khoa học và nghệ thuật của mỗi một giáo viên chúng ta.
Sử dụng phương pháp trực quan giúp cho học sinh quan sát, chiếm lĩnh các kiến thức từ đó hình thành và phát triển tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho học sinh.
2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan:
Là cách thức hệ thống các cách sử dụng các phương tiện trực quan để học sinh trực tiếp cảm giác, tri giác chúng, trên cơ sở đó phát hiện, khai thác và lĩnh hội kiến thức.
Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú:
-  Vật thật, sản phẩm mẫu ....gọi chung là vật phẩm kĩ thuật.
-  Mô hình, hình vẽ sơ đồ (tĩnh hoặc động)...gọi chung là vật tượng hình.
-  Các thí nghiệm biểu diễn hoặc chứng minh.
-  Các hành động, thao tác hoặc kĩ thuật.
-  Các động hình mô phỏng bằng máy tính.
Với mỗi loại phương tiện trực quan cần có cách thức sử dụng khác nhau để học sinh có thể tiếp nhận và lĩnh hội được kiến thức tiềm ẩn trong đó.
2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan:
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học giúp học sinh quan sát với các mục đích sau:
- Tiếp thu các kiến thức mới thông qua các hình ảnh và mô hình mà giáo viên đưa ra.
- Vận dụng các kiến thức đã học cũng như kiến thức vừa tiếp thu để thực hành lắp đặt tạo nên các mạch điện hoàn chỉnh.
-  Quan sát để khắc sâu kiến thức.
2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan:
Có thể tóm tắt quy trình thực hiện PPDH trực quan như sau:
 - Giáo viên giới thiệu phương tiện trực quan (tên phương tiện, cấu tạo/ phương pháp thể hiện các hiện tượng, sự vật...)
- Giáo viên nêu yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần khai thác, cần có được từ phương tiện trực quan đó.
-  Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng và khai thác kiến thức từ phương tiện trực quan thông qua các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề.
- Học sinh quan sát, nhận xét, rút ra kết luận về hiện tượng, sự vật qua phương tiện trực quan đã quan sát (tùy điều kiện, có thể làm việc cá nhân hoặc nhóm)
- Giáo viên tổng hợp và chốt kiến thức, kỹ năng cần thiết.
2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của nhóm phương pháp dạy học trực quan.
Các phương pháp dạy học trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức. Chức năng đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để khẳng định những kết luận có tính suy diễn và còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phuơng pháp dạy học trực quan góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh.
Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ.
Tuy vậy, nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện nhận thức mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
	Theo quan niệm giáo dục trước đây dụng cụ trực quan là phương tiện đề giáo viên truyền thị kiến thức mới, minh họa cho kiến thức đã truyền đạt, còn với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ. Theo quan niệm này thì đồ dùng trực quan chưa phát huy được hết vai trò của mình.
	Trong những năm gần đây, bộ môn công nghệ đã được quan tâm hơn trước. Có phòng học bộ môn, cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo cho môn học.
	Tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong đó khó khăn nhất là việc dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan, tuy đã triển khai nhưng hiệu quả đạt được không cao. Vấn đề này được giải thích ở một số nguyên nhân sau đây:
	Trước tiên là do quan niệm cho rằng môn công nghệ là môn học phụ, nên việc quan tâm tới môn này không cao. Thời gian đầu tư cho việc dạy và học còn ít, tâm lí không thấy quan trọng nên chỉ học mang tính chất đối phó. 
	Thứ hai là do cơ sở vật chất tuy đã có đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục. Ít khi các em được tham quan thực tế, như nhà xưởng, các chi tiết máy móc thiết bị nên kiến thức tiếp nhận của các em chủ yếu là qua sách vở.
	Thứ ba là ở một số trường chưa có giáo viên đúng chuyên ngành giảng dạy, một số giáo viên dạy Vật lí kết hợp cả công nghệ, tuy nhiên sẽ có phần hạn chế.
	Thứ tư do môn Công nghệ chưa tổ chức kì thi các cấp nên việc để phát huy tính tích cực của người học gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, có tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật cho nhiều ngành, lĩnh vực tuy nhiên còn khó với học sinh, các đề tài còn có sự tham gia của giáo viên nhiều.
	Thứ năm là do ý thức, trách nhiệm của mỗi giáo viên, khi họ có chuyên môn vững, yêu nghề, có phương pháp giảng dạy tốt, luôn biết làm mới bài giảng của mình thì học sinh trên lớp sẽ hào hứng, thú vị với môn học. Và đồ dùng trực quan là một công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy học đó.
Thực trạng sử dụng đồ dùng trực quan đối với dạy học trước đây.
2.3. Sử dụng phương pháp trực quan vào việc dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
 2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng phương pháp trực quan.
- Lựa chọn thận trọng các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học.
- Giải thích rõ mục đích trình bày những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng.
- Các phương tiện đó cần chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, cần giải thích rõ ràng những hiện tượng, diễn biến quá trình và kết quả của chúng, hướng dẫn học sinh quan sát để phát hiện nhanh những dấu hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Cần chuẩn bị đủ hoặc thừa số lượng phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học phù hợp với nội dung của tiết học và số lượng học sinh. Không lạm dụng quá nhiều phương tiện gây sự phân tán trong quá trình học của học sinh.
- Để học sinh quan sát có hiệu quả cần xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ quan sát, hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được. Từ đó học sinh có thể rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt những kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác.
- Bảo đảm cho tất cả học sinh quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có thể thì phân phát các vật thật cho họ. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát cần dùng các thiết bị có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy luật cảm giác, tri giác.
- Chỉ sử dụng những phương tiện dạy học khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của học sinh.
- Đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của học sinh.
- Đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và phương tiện kỹ thuật dạy học. Có bốn hình thức phối hợp như sau:
+ Hình thức thứ nhất: Dưới sự chỉ đạo bằng lời của giáo viên, học sinh quan sát trực tiếp các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, chính họ rút ra những thuộc tính, những mối quan hệ của chúng, những kết luận không cần suy luận.
+ Hình thức thứ hai: Trên cơ sở quan sát các đối tượng và dựa vào tri thức đã học của học sinh, giáo viên dẫn dắt họ biện luận, nêu ra các mối liên hệ giữa những hiện tượng bằng các biện pháp quy nạp, từ đó rút ra kết luận.
+ Hình thức phối hợp thứ ba là biện pháp minh hoạ đối với những hiện tượng đơn giản. Bằng lời nói giáo viên thông báo trước những hiện tượng, sự kiện, kết luận rồi sau đó trình bày phương tiện trực quan nhằm minh hoạ điều đã trình bày. Hình thức này ngược với trường hợp thứ nhất.
+ Hình thức thứ tư là hình thức có tính chất suy diễn. Với nội dung phải nghiên cứu phức tạp thì giáo viên bằng lời nói mô tả diễn biến của hiện tượng, kích thích học sinh tái hiện những tri thức đã học có liên quan đến hiện tượng để giải thích hiện tượng đó. Tiếp đó, giáo viên trình bày phương tiện trực quan để minh hoạ nhằm khẳng định những điều đã trình bày của mình. Hình thức phối hợp này ngược với hình thức thứ hai.
 Hai hình thức phối hợp đầu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động nhận thức tích cực hơn hai hình thức phối hợp sau. Song phải căn cứ vào tính chất nội dung, trình độ tri thức và trình độ phát triển của học sinh mà lựa chọn hình thức nào cho thích hợp.
	Việc soạn giáo án là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của giờ dạy và có tính chất bắt buộc đối với mọi giáo viên trước lúc thực hiện giờ lên lớp. Đó là điều hiển nhiên mà ai cũng biết thế nhưng vấn đề này vẫn đang còn phải trao đổi thêm. Hiện nay trên trang giáo án điện tử của mạng Internet của tất cả các môn học đều có các giáo án sẵn và thế là một bộ phận giáo viên đã tải về sử dụng, không dành nhiều thời gian nghiên cứu, không trăn trở nhiều cho việc chuẩn bị phương án giảng dạy vì thế hiệu quả của giờ dạy còn nhiều hạn chế. Mặc dù chúng ta có trình độ Đại học nhưng điều đó không có nghĩa là việc hiểu và giảng dạy chương trình phổ thông là một việc quá dễ dàng. Chúng ta đã từng chứng kiến có những giáo viên gần về hưu nhưng một số điều trình bày trong sách giáo khoa hiểu vẫn khôngthấu đáo. Dù sự giao lưu trao đổi giáo án giữa những người làm công tác giảng dạy hiện nay rất thuận lợi thì việc mỗi người tự mình trăn trở xây dựng phương án giảng dạy cho riêng mình là điều cực kì quan trọng không ai thay thế được. Tuy nhiên để có một giáo án có chất lượng cũng không phải là điều dễ dàng.Sau đây tôi xin được trao đổi thêm về vấn đề này.Tiến trình của việc soạn giáo ánđược thực hiện theo các bước sau:
- Bước 1: đọc kĩ sách giáo khoa, tóm tắt cuối bài, câu hỏi và bài tập mà sách giáo khoa đưa ra: Tóm tắt chính là những kiến thức cốt lõi, câu hỏi và bài tập là những yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của bài cần đạt được.
- Bước 2: xác định mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài: Có người cho rằng, các kiến thức có trong bài cứ khai thác cho hết, thế là đạt mục tiêu bài học. Đó chỉ là quan niệm có tính chất đơn giản. Thực tế đây là điều rất quan trọng quyết định hướng đi của tiết dạy. Nếu xác định đúng bài giảng sẽ trở nên ngắn gọn, tinh giản, vững chắc, đạt được mục tiêu, nếu xác định không đúng bài giảng sẽ trở nên ôm đồm, dàn trãi, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không rõ nét, phân bố hợp lý, mất nhiều thời gian vào các kiến thức không trọng tâm, không hoàn thành được khối lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt được mục tiêu bài học. Vậy làm thế nào để xác định đúng mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài. Điều nàyđòi hỏi phải đọc kĩ nội dung sách giáo khoa và xác định vị trí của bài trong hệ thống kiến thức của chương, của giáo trình. Trong đó tóm tắt sách giáo khoa, câu hỏi và bài tập cuối bài là gợi ý tốt về kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi mà học sinh phải nắm được sau khi học. 
- Bước 3: Đọc tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng thời gian không Sách giáo khoa viết rất cô đọng và súc tích. Nếu không dành thời gian thích đáng cho việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn sơ, ít có sức thuyết phục và dễ mắc phải lỗi về mặt kiến thức, điều này thể hiện rõ trong các trường hợp thầy giáo giảng giãi các kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế. Việc đọc các tài liệu tham khảo về nội dung liên quan đến bài giảng giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến thức, điều đó làm cho việc trình bày bài giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác, sâu sắc.Tuy nhiên, trong giờ giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của bài, của cấp học. Có giáo viên để thể hiện bài giảng sâu bằng cách đưa vào bài giảng quá nhiều ví dụ, nhiều kiến thức phức tạp, thậm chí dùng cả kiến thức đại học. Điều đó chỉ làm cho bài giảng trở nên ôm đồm gây rối trí mất thời gian vô ích của học sinh và đương nhiên không đạt được mục tiêu của bài học. Bài giảng sâu được thể hiện ở chỗ là người thầy làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, nắm được bản chất của kiến thức và vận dụng được các kiến thức của bài học để trả lời các tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra. Khi soạn bài phải lưu ý đến tính thực tiễn, xác định xem những kiến thức nào của bài cần có những ví dụ minh hoạ hoặc vận dụng để giải quyết các tình huống lý thuyết, tình huống thực tiễn và bài tập đặt ra. Điều này vừa là yêu cầu của bài giảng vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Tuy nhiên các dẫn chứng đưa ra chỉ cần vừa đủ, thật sự điển hình, tránh đưa quá nhiều làm cho bài giảng ôm đồm, mất thời gian không cần thiết.
- Bước 4: Lựa chọn phương pháp giảng dạy.Phương pháp giảng dạy cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của bài. Dù dùng phương pháp nào đều phải thể hiện được phương châm: lấy học sinh làm trung tâm, rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Rèn luyện qua việc đọc thông tin, nghiên cứu hình vẽ, đồ thị, biểu đồ, thí nghiệm trong sách giáo khoa từ đó rút ra các kết luận cần thiết phục vụ nội dung bài dạy. Quan sát các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội để rút ra các kết luận về mặt kiến thức hoặc để giải thích nó. Những điều này chính là điểm mới trong phương pháp dạy học hiện nay.
	Trong quá trình soạn giáo án nên cố gắng tìm cách chuyển đổi nội dung bài dạy thành các tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh khám phá kiến thức. Điều này vừa là yêu cầu của phương pháp dạy học vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Trong thực tiễn chúng ta thấy rằng, có những bài, những nội dung kiến thức khó chuyển thành các tình huống có vấn đề, quả đúng như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp đó đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm tòi, cân nhắc sẽ giúp chúng ta thu được nhiều cơ hội thành công. Sự tâm huyết, làm việc có trách nhiệm, kiên trì quán triệt tinh thần nêu trên chúng ta sẽ dần dần có khả năng chuyển đổi các nội dung phức tạp thành các tình huống có vấn đề ngày càng dễ dàng. Tuy nhiên các câu hỏi đặt ra phải hợp lý, có tính định hướng, có tác dụng phát huy trí lực học sinh, tránh sử dụng các câu hỏi vụn vặt, quá đơn giản ít có ý nghĩa làm tốn thời gian và vô ích.
- Khi soạn giáo án không quá lệ thuộc vào cách trình bày trong sách giáo khoa: Nói chung các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên ở một số bài có thể được trình bày theo cấu trúc khác tùy vào phương án giảng dạy của giáo viên, thể hiện ở các điểm như: sắp xếp lại trình tự các phần, thêm hoặc bớt một số mục, một số kiến thức cần thiết. Nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể đưa ra cách trình bày các kiến thức phức tạp trong sách giáo khoa một cách tương đối đơn giảnlàm giảm bớt sự căng thẳng, nặng nề, khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Giờ giảng phải thể hiện được các yêu cầu đã nêu trong giáo án, sinh động, phân bố thời gian hợp lý, đảm bảo tinh giản vững chắc, phát huy được tính tích cực của học sinh
- Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: Việc tạo cho giờ dạy có tính sinh động có ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến cùng một bài dạy được trình bày với cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự khác nhau trong trạng thái tâm lí mà có lớp giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu hào hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt, đó là những bài giảng không có hồn. Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối với học sinh. Thầy giáo phải luôn có tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ dạy, có lòng bao dung, xử lí một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống không bình thường mà học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời giảng của thầy sẽ khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh.
- Phân bố thời gian hợp lý với yêu cầu từng phần, từng đơn vị kiến thức làm cho bài giảng hài hòa cân đối.
- Tinh giản thể hiện ở chỗ: các nội dung kiến thức được trình bày ngắn gọn, vừa đủ, không đưa vào các vấn đề phức tạp không cần thiết, không phù hợp với yêu cầu bài dạy và trình độ học sinh. Các ví dụ và hình ảnh minh họa cho bài giảng phải thật điển hình số lượng vừa đủ, n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_tot_phuong_phap_truc_quan_nham_gay_hung_thu_hoc.doc