SKKN Sử dụng phương pháp dạy học nhóm trong nghiên cứu bài học Đò Lèn từ phương diện văn hóa cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Như Thanh 2
Mỗi tác phẩm văn học đều chứa đựng những chiều sâu giá trị, đối với độc giả quá trình tìm tòi là quá trình đồng sáng tạo với tác giả. Mỗi người tùy vào cảm nhận riêng mà có sự đồng cảm đối với phẩm văn chương, mục đích cuối cùng là làm cho nó ngày càng tỏa sáng và đem lại cho chúng ta những giá trị sống đích thực thêm yêu cuộc đời, trân quý những di sản văn hóa của quê hương.
Trong SGK Ngữ văn lớp 12 cơ bản, bài thơ đã được đưa vào chương trình, nhưng là bài đọc thêm, bởi vậy nó chưa được chú ý nhiều, thông thường chỉ được khai thác ở phương diện ngôn ngữ nhưng để là nên một Nguyễn Duy tài hoa thâm trầm và sắc sảo một phần lớn chính là sự ảnh hưởng từ quê hương, cụ thể hơn đó chính là miền đất xứ Thanh với bao trầm tích văn hóa. Cho nên việc nghiên cứu khai thác phương diện văn hóa trong bài thơ cũng là sự lí giải phần nào trong phong cách thơ ông nói chung và những đặc sắc của bài thơ mà chúng ta chưa chú ý đến nhiều.
Thơ Nguyễn Duy viết nhiều về quê hương, nhưng vẻ đẹp quê hương hiện lên từ những gì giản dị đời thường nhưng là một quê hương của hoài niệm, của sự thăng hoa trong tâm hồn tác giả. Bởi vậy là một con người từng trải, ông có cái nhìn sự vật hiện tượng đa chiều đặc biệt là ở chiều sâu triết lí sâu sắc, cho nên Đò Lèn không chỉ là bài thơ hoài niệm về tuổi thơ mà còn là tiếng lòng về một miền đất đã để cho ông thương nhớ khắc khoải suốt một đời. Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy đã đưa ta về với miền kí ức xa xôi để gặp lại mình trong những hình ảnh gần gũi của quê hương xứ sở.
1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Mỗi tác phẩm văn học đều chứa đựng những chiều sâu giá trị, đối với độc giả quá trình tìm tòi là quá trình đồng sáng tạo với tác giả. Mỗi người tùy vào cảm nhận riêng mà có sự đồng cảm đối với phẩm văn chương, mục đích cuối cùng là làm cho nó ngày càng tỏa sáng và đem lại cho chúng ta những giá trị sống đích thực thêm yêu cuộc đời, trân quý những di sản văn hóa của quê hương. Trong SGK Ngữ văn lớp 12 cơ bản, bài thơ đã được đưa vào chương trình, nhưng là bài đọc thêm, bởi vậy nó chưa được chú ý nhiều, thông thường chỉ được khai thác ở phương diện ngôn ngữ nhưng để là nên một Nguyễn Duy tài hoa thâm trầm và sắc sảo một phần lớn chính là sự ảnh hưởng từ quê hương, cụ thể hơn đó chính là miền đất xứ Thanh với bao trầm tích văn hóa. Cho nên việc nghiên cứu khai thác phương diện văn hóa trong bài thơ cũng là sự lí giải phần nào trong phong cách thơ ông nói chung và những đặc sắc của bài thơ mà chúng ta chưa chú ý đến nhiều. Thơ Nguyễn Duy viết nhiều về quê hương, nhưng vẻ đẹp quê hương hiện lên từ những gì giản dị đời thường nhưng là một quê hương của hoài niệm, của sự thăng hoa trong tâm hồn tác giả. Bởi vậy là một con người từng trải, ông có cái nhìn sự vật hiện tượng đa chiều đặc biệt là ở chiều sâu triết lí sâu sắc, cho nên Đò Lèn không chỉ là bài thơ hoài niệm về tuổi thơ mà còn là tiếng lòng về một miền đất đã để cho ông thương nhớ khắc khoải suốt một đời. Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy đã đưa ta về với miền kí ức xa xôi để gặp lại mình trong những hình ảnh gần gũi của quê hương xứ sở. Đò Lèn là bài thơ viết về đất và con người xứ Thanh, một miền quê có chiều rộng về không gian, chiều dài của thời gian lịch sử và cả chiều sâu về văn hóa, bởi vậy tìm hiểu bài thơ ở phương diện văn hóa cũng là một sự lí giải một phần về vẻ đẹp quê hương trong những ngày tỉnh ta kỷ niệm 990 Thanh Hóa. Với những lí do cơ bản trên cùng với những cảm nhận của bản thân mình trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy và với mong muốn giúp học sinh cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ tôi đã xây dựng đề tài: Sử dụng phương pháp dạy học nhóm trong nghiên cứu bài học Đò Lèn từ phương diện văn hóa cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Như Thanh 2. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là từ việc hướng dẫn học sinh phân tích hình ảnh, ngôn ngữ để chứng minh là rõ vẻ đẹp độc đáo của bài thơ Đò Lèn, từ đó hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Duy. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là bài thơ Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy, có liên hệ đến một số bài thơ khác của ông. - Phạm vi nghiên cứu không phải là tất cả các phương diện, các khía cạnh của bài thơ mà chúng tôi tập trung chủ yếu vào vẻ đẹp ở phương diện văn hóa của bài thơ. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp như: phương pháp thống kê – phân loại; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh – liên tưởng; phương pháp vấn đáp – gợi mở; nêu ví dụ và một số phương pháp khác. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Mỗi nhà văn xuất hiện, ngoài những yêu tố gia đình thời đại sống của tác giả ta còn thấy sự ảnh hưởng từ nền văn hóa quê hương. Trong sáng tác, dấu ấn văn hóa in đậm trong phong cách nghệ thuật của nhà văn, vì vậy ta sẽ cảm nhận thấy đậm chất văn hóa vùng miền trong các tác phẩm văn học. Định nghĩa về văn hóa có rất nhiều, ngay từ năm 1952 hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa về văn hóa (Văn hóa – Wikipedia), theo Từ điển tiếng Việt: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Như vậy nói đến văn hóa là nói đến một khái niệm rất rộng về tất cả các mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người nó đã trở thành một đặc điểm bền vững lâu dài. Nhưng với phạm vi bài sáng kiến kinh nghiệm này ta chỉ chú ý đến một số nét cơ bản của văn hóa đó chính là văn hóa tín ngưỡng, đời sống tâm hồn, không gian sống của con người. Nhà văn là sản phẩm của một nền văn hóa. Với Nguyễn Duy, là người con của xứ Thanh, ông đã đem vào trang thơ của mình cái nồng nàn của hương vị quê hương tạo nên những dư vị ngọt ngào về tình quê, tình đất tình người. Chính vì sinh ra và lớn lên trong cái nghèo khổ hòa nhập vào văn hóa quê hương để rồi những sự vật hiện tượng trong thơ Nguyễn Duy vừa mộc mạc lại vừa thiêng liêng. Văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 ra đời khi sứ mệnh thiêng liêng đấu tranh thống nhất nước nhà đã hoàn thành, bởi vậy thay vì phản ánh con người trong trách nhiệm lớn lao của cộng đồng, văn học trở về phản ánh con người đời tư thân phận: “ Văn học giai đoạn này đã đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận, cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống, đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh”. Trong bài thơ Đò Lèn tác giả đã đưa ta về với tuổi thơ của ông, về với miền quê bên dòng sông Mã nơi ngọn nước chia hai để làm nên một vùng đất Đò Lèn. Những hình ảnh quê hương của một thời xa vắng đã dội về trong tâm hồn người lính đã đi qua bao cuộc chiến tranh, gặp gỡ bao kiếp người, chứng kiến cuộc đời dâu bể để cho ra đời một bài thơ thấm thía tình đời. Đò Lèn ra đời tháng 9 năm 1983 khi nhà thơ đã quá nửa đời phiêu bạt, trở về quê ngoại, hoài niệm thời gian vỡ òa cảnh xúc, trong bài thơ có hoài niệm nhớ thương, có những suy tư trước cuộc đời, nhưng đọng lại trong ta đó là một không gian văn hóa đặc trưng của xứ Thanh, những con người chất phác thật thà lam lũ trong cuộc mưu sinh, có sắc màu tín ngưỡng đậm đà độc đáo. 2.2. Thực trạng trước khi sử dụng sáng kiến kinh nghiệm Là một bài thơ hay, nhưng khi đưa vào SGK Ngữ văn 12 tập một nó chỉ là bài đọc thêm trong chương trình với thời lượng hướng dẫn là 1 tiết. SGV Ngữ văn 12 tập một khi định hướng nghiên cứu bài học cũng chỉ chủ yếu phân tích về những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ và hình ảnh của người bà, về giọng thơ của nhà thơ trong tác phẩm. Trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12, phần về bài thơ Đò Lèn, trọng tâm kiến thức được xác định: “Cuộc sống lam lũ, tần tảo của người bà bên cạnh sự vô tư đến vô tâm của người cháu và sự thích tỉnh của nhân vật trữ tình. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ hình ảnh, cách thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình”. Đối với giáo viên khi dạy bài thơ Đò Lèn cũng thường chủ yếu khai thác về ngôn ngữ hình ảnh thơ, những nội dung chính về hoài niệm của tuổi thơ mà không chú ý nhiều đến vẻ đẹp riêng, độc đáo về sắc màu văn hóa của bài thơ, chính vì vậy đối với học sinh khi học xong bài thơ Đò Lèn đều có cảm nhận chung chung về bài thơ như là nội dung nghệ thuật mà chưa cảm nhận thấy hết vẻ đẹp độc đáo của nó. Riêng đối với học sinh trường THPT Như Thanh 2, là những người sinh ra và lớn lên trên chính mảnh đất quê hương mình, nhưng các em chưa cảm nhận hết được chiều sâu vẻ đẹp văn hóa quê hương, vì vậy việc giúp các em tìm hiểu về bài thơ từ góc độ văn hóa cũng là cách giáo dục các em về tình yêu quê hương một cách sâu sắc. Chính vì những thực trạng đã nêu ở trên, chúng tôi thấy tất cả những nội dung đã tiếp cận về bài thơ là rất đúng nhưng vẫn còn chưa đủ nếu như chúng ta bỏ qua màu sắc văn hóa trong bài thơ, từ một bài thơ cụ thể có thể hiểu thêm về nhà thơ cũng như nền văn hóa đặc trưng của quê hương Thanh Hóa chúng ta. Màu sắc văn hóa của bài thơ được thể hiện cụ thể ở ba phương diện sau: tín ngưỡng tâm linh, hình ảnh người bà và không gian văn hóa của bài thơ. Từ đó chúng tôi đã đưa ra giáo án thực nghiệm để dạy học bài Đò Lèn nhằm giúp cho học sinh hiểu về bài thơ theo phương diện mới để khám phá thêm chiều sâu vẻ đẹp của bài thơ. 2.3. Giáo án thực nghiệm: Cầu Đò Lèn 2.3.1. Mục tiêu bài học: Giúp học sinh: - Hiểu về đặc trưng phong cách thơ Nguyễn Duy: có sư kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc. Bài thơ tiêu biểu cho thơ ông về sự hoài niệm quá khứ với những suy tư trong cuộc sống đời thường. - Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng hợp tác, kĩ năng hoạt động nhóm... - Có tình yêu quê hương, trân trọng nền văn hóa dân tộc. 2.3.2. Phương pháp: - Tự nghiên cứu, hoạt động nhóm... 2.3.3. Phương tiện dạy học: - Giáo viên: SGK, SGV, tài liệu tham khảo, giáo án, máy chiếu... - Học sinh: SGK, vở ghi, vở soạn, giấy A0, bút dạ... 2.3.4. Hoạt động dạy học: - Bài cũ: - Bài mới: Giáo viên giới thiệu về phong cách sáng tác, đóng góp của tác giả Nguyễn Duy đối với nền thơ ca sau 1975. 2.3.4.1. Bước 1: chia học sinh thành ba nhóm thực hiện thảo luận ba nội dung sau: Nhóm 1: Nhận diện thống kê những từ ngữ hình ảnh nói về thế giới tâm linh trong bài thơ. Cảm nhận của em về những hình ảnh đó? Nhóm 2: Người bà của nhân vật trữ tình được tái hiện lại qua những chi tiết nào? Nhân vật người bà có gì giống và khác nhau so với hình ảnh người bà trong bài Bếp lửa của Bằng Việt? Nhóm 3: Không gian văn hóa của xứ Thanh được nhắc đến qua những từ ngữ, hình ảnh nào trong bài thơ ? 2.3.4.2.Bước 2: Đại diện học sinh trì bày sản phẩm của tổ nhóm Nhóm 1: Nhận diện thống kê những từ ngữ hình ảnh nói về thế giới tâm linh trong bài thơ. Cảm nhận của em về những hình ảnh đó. Từ ngữ, hình ảnh của tín ngưỡng Cảm nhận Mùi huệ trắng Màu sắc – hương vị Khói trầm Hương vị Điệu hát văn Âm thanh Bóng cô đồng Màu sắc Những từ ngữ, hình ảnh nói về thế giới tâm linh trong kí ức của tác giả được thể hiện chủ yếu trong khổ thơ thứ 2 của bài thơ với những hình ảnh: Đền Cây Thị, đền Sòng, mùi huệ trắng, khói trầm, hát văn, cô đồng. Đây là hình ảnh không gian thờ cúng của một ngôi đền, không khí thiêng liêng đầy bí ẩn đặc biệt rất hấp dẫn bởi trí tò mò của trẻ thơ. Nhóm 2: Người bà của nhân vật trữ tình được tái hiện lại qua những chi tiết nào? Nhân vật người bà có gì giống và khác nhau so với hình ảnh người bà trong bài Bếp lửa của Bằng Việt? Lập bảng so sánh hai nhân vật người bà trong bài thơ Đò Lèn và bài Bếp lửa (Bằng Việt): Những ấn tượng về bà của tác giả Bài thơ Đò Lèn Bài thơ Bếp lửa Thời gian Qúa khứ nghèo khổ trong cuộc mưu sinh Quá khứ nghèo khổ nhưng vĩ đại của dân tộc Không gian Rộng của cuộc đời mưu sinh Hẹp trong hình ảnh bếp lửa Hình ảnh Tần tảo buôn bán Chịu thương chịu khó Hương vị Củ dong riềng Mùi khói Ngôn ngữ Im lặng Lời dạy dỗ, nhắc nhở Liên tưởng Thánh thần Cha – mẹ - người bạn tuổi thơ Quan hệ với lịch sử Đời tư – bình dị Đặt trong vị trí lịch sử Thái độ của tác giả Trân trọng – ân hận Trân trọng - tự hào Nhân vật người bà được hiện lên trong bài thơ Đò Lèn rất độc đáo trong hai hoàn cảnh: Trực tiếp qua hình ảnh: đi chợ, mò cua xúc tép, gánh chè xanh, bán trứng Gián tiếp qua hình ảnh: tiên, Phật, thánh, thần Nếu hình ảnh người bà hiện lên trực tiếp tác giả đã cho ta thấy hình ảnh một người phụ nữ nông thôn lam lũ vất vả, lấy việc buôn bán làm nghề mưu sinh để nuôi mình và cháu ngoại, thì hình ảnh gián tiếp lại thể hiện vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn ngây thơ của trẻ nhỏ vì bà giống như tiên Phật thánh thần, luôn đem lại niềm vui trực tiếp cho cháu. So sánh bà ngoại của nhà thơ và hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa của bằng Việt: cả hai bà đều giống nhau ở tình thương yêu đối với cháu mình, họ đều là những người phụ nữ vất vả trong cuộc mưu sinh, nhưng mỗi người bà lại mang một đặc điểm khác nhau: Người bà của nhà thơ Bằng Việt gắn với hình ảnh bếp lửa, những câu chuyện về thành phố, những lời dạy của bà về đạo lý, những con chữ đầu đời có phần nghiêm khắc thì ta lại thấy bà ngoại của Nguyễn Duy là một người phụ nữ nông thôn chỉ biết “đòn gánh tre chín dạn hai vai”, quê mùa chất phác rộng lượng vị tha yêu chiều cháu từ cái chuyện đi chơi, xem hội, cả trò đùa tinh nghịch tuổi thơ, cả bài thơ ta thấy bà là người trầm lặng, không nói, không kêu ca, hình ảnh của sự thân thương gần gũi như chính đời ta đã từng được ân huệ khi ở bên bà của mình. Nhóm 3: Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện không gian văn hóa của xứ Thanh được nhắc đến trong bài thơ ? Không gian văn hóa trong bài thơ đó chính là không gian sống của một miền quê xứ Thanh: sông Đò Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Sòng, đền Cây Thị, cánh đồng Quan, ga Lèn mở rộng hơn nữa là những địa danh giáp ranh Thanh Hóa – Ninh Bình đó là Quán Cháo, Đồng Dao, Ba Trại Không gian thu nhỏ của một làng quê tiêu biểu cho phong cảnh vùng quê Thanh Hóa thanh bình. 2.3.4.3.Bước 3: Giáo viên củng cố, chốt kiến thức về vẻ đẹp độc đáo của văn hóa xứ Thanh trong bài thơ Đò Lèn 2.3.4.3.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu Lễ hội Sòng Sơn - Ba Dội Điều đặc biệt của bài thơ đó chính là tác giả đã đề cập đến một phong tục tín ngưỡng đặc trưng của miền đất Thanh Hóa: tín ngưỡng thờ Mẫu. Thánh mẫu Liễu Hạnh trong tiềm thức dân gian được tôn xưng là Mẫu nghi thiên hạ với ba lần sinh, ba lần hóa. Tín ngưỡng này đã lan tỏa hầu khắp các huyện đồng bằng, trung du trong tỉnh Thanh Hóa với những ngôi đền, ngôi phủ linh thiêng như Phủ Vặng (thành phố Thanh Hóa), phủ Tuần (Nông Cống), phủ Na, phủ Sung (Như Thanh), phủ Tía (Triệu Sơn), phủ Cảnh (Quảng Xương), phủ Ngọc Sơn (Tĩnh Gia) Vùng đất Hà Trung Thanh Hóa được xem là lần giáng sinh cuối cùng của Liễu Hạnh, là vùng đất thiêng sau Phủ Dầy và vì vậy quê hương Đò Lèn đã là cái nôi để rồi xuất hiện những ngôi đền tứ phủ linh thiêng thờ các nữ thần mà cả nước đều biết tiếng như đền Sòng Sơn (Sùng Trân) với câu ca “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh”, đền Ba Bông, đền Cây Thị, đền cô Tám đồi chè Các ngôi đền này đã tôn vinh và ca ngợi về những người phụ nữ vốn xuất thân là lao động và liên quan đến thương nghiệp. Giá trị của đạo Mẫu đó là nó đã có đóng góp lớn cho nền văn hóa dân gian, là sản phẩm tổng hợp của tất cả các ngành nghệ thuật dân gian từ không gian diễn xướng, âm nhạc, hội họa giá trị nhân văn trong đạo Mẫu đó là đề cao về người phụ nữ, xóa bỏ sự phân biệt giữa các vùng miền, xóa bỏ gia cấp khi con người bình đẳng trước thánh thần, đề cao cuộc sống thực tại, đề cao chủ nghĩa yêu nước khi các vị thần là những người có công trong việc dựng nước và giữ nước. Tuổi thơ của tác giả đã được tắm trong bầu không khí thiêng liêng của nền văn hóa đó để rồi đến quá nửa đời phiêu bạt về lại với bến sông Đò Lèn tác giả đã hoài niệm: “Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng” Tác giả đã đưa chúng ta về với thế giới của tâm linh huyền ảo bằng nỗi niềm hoài niệm tuổi thơ. Cuộc đời ông đã sống trọn niềm vinh quang của thế hệ gánh vác sứ mệnh lịch sử thiêng liêng, bao nhiêu lí luận về tôn giáo nhà thơ đã hiều hết nhưng với cội nguồi văn hóa ông không hề có thái độ kì thị mà từ sâu thẳm là sự trân trọng và tự hào. Văn hóa quê hương đã thấm vào tâm hồn ông để rồi khi đã là một người bước sang cái dốc bên kia, ngày trở về thăm quê ông vẫn còn say đắm không khí của một canh hầu: “Phiêu bồng dạt ngã ba Bông đền Hàn, đền Thị, đền Sòng, đền quê thần linh nườm nượp trở về chắp tay lạy thánh tôi mê cô đồng” (Đi lễ - Nguyễn Duy) Đền Cây Thị - Chầu đệ tứ Trong tín ngưỡng thờ mẫu, không thể thiếu đó là nghi thức hầu đồng nhằm tưởng nhớ hình ảnh của một vị thánh được thờ, người ngồi để ngự đồng mặc đồ trắng, khoác áo ngự khăn chầu màu đỏ, bài hát ca ngợi vị thánh đó chính là hầu văn nó đã được công nhận là văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tác giả đã thu lại cái thần thái của một vấn hầu với sự cảm nhận bằng mọi giác quan, tạo nên một ấn tượng thoát tục của con người. Cái nên thơ của hình ảnh lại hiện lên bằng tâm hồn trong sáng của trẻ thơ, vừa thực vừa mộng, lung linh huyền ảo. Như vậy, qua bài thơ tác giả đã tái hiện một nét văn hóa rất đặc trưng của đời sống tâm linh vùng quê Thanh Hóa. 2.3.4.3.2. Hình ảnh người bà mang vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Thanh Hóa Điều đầu tiên ta ấn tượng đó là một người phụ nữ nông thôn chân chất thật thà, trong bài thơ tác giả không hề nhắc đến lời nói của bà. Hình như cuộc đời bà sống trong lặng lẽ, dù cuộc đời đau thương khi con gái mất sớm bà phải làm lụng nuôi mình nuôi cháu ngoại, hay kể cả khi binh lửa bao trùm, số phận của bà chịu chung nỗi đau cùng đất nước thì bà cũng chẳng kêu ca. Sự tần tảo: hình ảnh của bà thấp thoáng hiện lên trong bài thơ, trong dòng hồi ức của tác giả luôn đi kèm theo những hành động: Bà đi chợ Bà mò cua xúc tép Bà đi gánh chè xanh Bà tôi đi bán trứng Hình ảnh đọng lại mang đầy những yêu thương và cả sư ân hận là từ láy “thập thững” bước thấp bước cao chập chờn trong đêm lạnh giá. Nhân hậu bao dung: nếu như người bà trong thơ Bằng Việt có phần nghiêm khắc thì nhà thơ Nguyễn Duy đã may mắn tận hưởng một tuổi thơ đúng nghĩa với tất cả sự hồn nhiên vô tư của mình khi được câu cá, ăn trộm nhãn, đi chợ, đi xem lễ đền Sòng, đền Cây Thị cậu bé đã tha hồ được khám phá thế giới tuổi thơ, được hạnh phúc giữa hai thế giới hư và thực: “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần Thế giới tiên Phật, thánh, thần là thế giới hư ảo, cuộc đời bà là những hiện thực vất vả gian nan, nhưng giữa bà và thánh thần có lúc tưởng chừng như là một trong trí tưởng tượng của cậu bé. Nếu ai đã từng tìm hiểu về đạo Mẫu chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi đọc những vần thơ này, không phải vô tình tác giả nhớ về tuổi thơ với hình ảnh của bà mò cua xúc tép, bán chè xanh. Ngay trên quê ngoại của Nguyễn Duy có một ngôi đền cô gái bán chè xanh (cô Tám đồi chè), và đền cô gái làm nghề chèo đò quăng chài thả lưới trên sông (cô Bơ) Nhưng cuối cùng thế giới hư ảo còn động lại trong một hình ảnh rất thực: “bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Hình ảnh nấm cỏ của phần cuối bài thơ, mộ bà nằm lặng yên bên dòng sông quê khép lại một kiếp người. Không tượng đồng bia đá, không có nhiều những gì vĩ đại tôn xưng, nơi yên nghỉ cuối cùng cũng lặng lẽ như cuộc đời bà và bao nhiêu người dân bình dị khác: “Họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm” (Nguyễn Khoa Điềm). Văn học giai đoạn sau 1975 trở về với đời tư thế sự, với con người thân phận, không phản ánh con người trách nhiệm, cho nên các nhân vật được xuất hiện trong hình hài chân thực của cuộc sống bằng vẻ quê mùa mộc mạc, nhưng vẫn không thoát li khỏi giá trị nhân đạo truyền thống, vẫn lấp lánh sắc màu của vẻ đẹp nhân văn. Khi viết về người đã khuất, không cần gì phải nói nhiều lời tiếc thương hay ca tụng, nghĩ về người đã khuất để ta sống tối hơn thôi. 2.3.4.3.3. Không gian văn hóa vùng miền Thanh Hóa từ xưa được tôn xưng là vùng đất địa linh nhân kiệt nơi phát tích phần lớn các vương triều thời phong kiến của Việt Nam, theo dòng lịch sử Đò Lèn là trang ấp của vương hầu đời Lý, quê hương Hồ Qúy Ly, chùa Trần còn là di tích lịch sử cách mạng, Đò Lèn cũng đã ghi tên chói lọi của mình trong trang sử nước bằng những chiến công nhưng trong bài thơ tác giả không nhằm để ca ngợi về một miền đất lịch sử bởi vì trước và sau ông đã có cả một nền thi ca nhạc họa tôn vinh miền đất Thanh Hóa anh hùng. Đóng góp của Nguyễn Duy trong bài thơ Đò Lèn đó chính là nỗi nhớ thương đau đáu của người con xa xứ về một miền quê. Bước ra từ khói bụi chiến tranh, nếm trải cuộc đời vinh nhục được mất, thấm thía nỗi lòng dân trong khát vọng thanh bình, bởi vậy hình ảnh Thanh Hóa trong bài thơ thật êm đềm. Chợ Bình Lâm xưa, nay là chợ Đò Lèn Trước hết, không gian văn hóa được hiện lên từ những địa danh, những cái tên mộc mạc như chính những người quê xứ Thanh trầm lặng mà sắc sảo mặn mà: đó là cống Na, chợ Bình Lâm, đồng Quan, ga Lèn không chỉ dừng lại những địa danh trong tỉnh, theo dấu chân tần tảo của bà ta còn được đến cả những nơi thuộc tỉnh Ninh Bình đó là Quán Cháo, Đồng Dao, Ba Trại đó là không gian sinh tồn hằn sâu những địa danh với bao đời, bao kiếp người. Thứ hai, không gian văn hóa ấy đã vẽ lên một bức tranh về làng quê Thanh Hóa, một vùng chiêm trũng như bao là quê bên sông Mã, sông Chu với những ngôi đền thờ cổ kính linh thiêng soi bóng xuống dòng sông Mã, có “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông” (Mãn Giác) đó là chùa Trần tên chữ là Phúc Linh tự là nơi thành lập
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_day_hoc_nhom_trong_nghien_cuu_bai_h.docx