SKKN Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” gây hứng thú học tập môn Sinh học khi dạy chương “Vận động” cho học sinh lớp 8 trường THCS Nga Liên
“Dạy tốt - Học tốt” được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Trong giảng dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác tìm tòi của học sinh là vấn đề mà nhiều giáo viên và các cấp quản lí giáo dục phải quan tâm, nghiên cứu. Muốn vậy trong mỗi bài giảng cần phải cải tiến được nội dung, phương pháp giảng dạy một cách hợp lý để khai thác sâu kiến thức, rèn trí thông minh, óc suy nghĩ sáng tạo cho học sinh giúp các em nắm kiến thức nhanh và chính xác. Để đạt được như vậy thì mỗi giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với từng tiết dạy của môn học để gây hứng thú học tập.
Nội dung học tập của bộ môn Sinh học ở trường THCS nói chung, môn Sinh học 8 nói riêng chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh động, phong phú, hấp dẫn, để kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh tạo điều kiện hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học sinh. Đặc biệt, bộ môn Sinh học 8 là bộ môn khoa học nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu sinh lý người và vệ sinh nên việc sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung của môn học có vai trò rất quan trọng.
Là giáo viên đứng trên bục giảng lâu năm tôi luôn trăn trở và mong muốn tìm được phương pháp dạy học để các em thấy dễ hiểu, hiểu sâu và quan trọng hơn là các em biết cách để tự mình tìm ra tri thức như ông cha ta đã nói “Cho bát cơm không quý bằng cho cái cần câu cơm”. Thay vì truyền đạt kiến thức cho các em hãy giúp các em biết cách tự tìm lấy tri thức, được như vậy thực không còn gì bằng.
“Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học mà tôi hằng mong muốn tìm được vì “Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra
MỤC LỤC Mục Tên đề mục Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2 4.1. Phương pháp thu thập thông tin 2 4.2. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết 2 4.3. Phương pháp nghiên cứu lí luận 2 4.4. Phương pháp dạy học trực tiếp 2 4.5. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu 2 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SKKN 3 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN 3 3. CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5 3.1. 1. Tiến trình dạy học áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” 5 Bước 1 Tổ chức các hoạt động tạo tình huống xuất phát “giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu” kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề 5 Bước 2 Tổ chức hoạt động hình thành câu hỏi của học sinh và kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” 6 Bước 3 Xây dựng giả thuyết, thiết kế phương án thực nghiệm thông qua thảo luận và hoạt động nhóm 7 Bước 4 Tổ chức thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu tìm câu trả lời cho từng đơn vị kiến thức của bài học 9 Bước 5 Tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích thông tin rút ra kết luận và hệ thống hóa kiến thức 10 3.2. Bài giảng thực nghiệm: 11 4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC. 16 4.1. Quá trình thực hiện: 16 4.2. Kết quả nghiên cứu 17 5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 17 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18 1. KẾT LUẬN 18 2. KIẾN NGHỊ 18 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 V. DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN. 20 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI “Dạy tốt - Học tốt” được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Trong giảng dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác tìm tòi của học sinh là vấn đề mà nhiều giáo viên và các cấp quản lí giáo dục phải quan tâm, nghiên cứu. Muốn vậy trong mỗi bài giảng cần phải cải tiến được nội dung, phương pháp giảng dạy một cách hợp lý để khai thác sâu kiến thức, rèn trí thông minh, óc suy nghĩ sáng tạo cho học sinh giúp các em nắm kiến thức nhanh và chính xác. Để đạt được như vậy thì mỗi giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với từng tiết dạy của môn học để gây hứng thú học tập. Nội dung học tập của bộ môn Sinh học ở trường THCS nói chung, môn Sinh học 8 nói riêng chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh động, phong phú, hấp dẫn, để kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh tạo điều kiện hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học sinh. Đặc biệt, bộ môn Sinh học 8 là bộ môn khoa học nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu sinh lý người và vệ sinh nên việc sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung của môn học có vai trò rất quan trọng. Là giáo viên đứng trên bục giảng lâu năm tôi luôn trăn trở và mong muốn tìm được phương pháp dạy học để các em thấy dễ hiểu, hiểu sâu và quan trọng hơn là các em biết cách để tự mình tìm ra tri thức như ông cha ta đã nói “Cho bát cơm không quý bằng cho cái cần câu cơm”. Thay vì truyền đạt kiến thức cho các em hãy giúp các em biết cách tự tìm lấy tri thức, được như vậy thực không còn gì bằng. “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học mà tôi hằng mong muốn tìm được vì “Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đưa ra các câu hỏi, các giả thiết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và rút ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Vì vậy với mỗi nội dung học sẽ là một trải nghiệm, điều này khiến học sinh có hứng thú học tập, say mê nghiên cứu và khắc sâu kiến thức hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó theo xu hướng giáo dục hiện nay thì “Người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình nhận thức” còn giáo giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, uốn nắn người học tìm ra kiến thức, mà phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã đáp ứng được các yêu cầu nói trên. Chính vì những lý do đã phân tích ở trên, để góp phần giúp học sinh học môn Sinh học 8 tốt hơn tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” gây hứng thú học tập môn Sinh học khi dạy chương “Vận động” cho học sinh lớp 8 trường THCS Nga Liên” để nghiên cứu và áp dụng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu vai trò của phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học Sinh học 8. Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 8 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Giúp cho các em học sinh nắm vững kiến thức và có thêm một số kỹ năng vận dụng các kiến thức đó. Tạo cho học sinh niềm tin, sự yên tâm, say mê học tập và tìm tòi thêm về môn Sinh học 8. Phát huy được quá trình học sinh tự nhận thức, tự khám phá tìm tòi tri thức về môn Sinh học một cách chủ động, tích cực đó là quá trình tự phát hiện và giải quyết các vấn đề. Góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả dạy học môn Sinh học ở trường THCS Nga Liên. Ngoài ra tôi còn tìm tòi, mở rộng, nâng cao để giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện trí thông minh. Từ đó các em có khả năng giải quyết các bài tập và vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách chủ động hơn. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng: Giáo viên và các em học sinh khối 8 của trường THCS Nga Liên. Nghiên cứu việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chương “Vận động” Sinh học 8 để gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 8 trường THCS Nga Liên, Nga Sơn. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4.1. Phương pháp thu thập thông tin Khảo sát thực tế học sinh: Qua hai đợt (đầu năm và qua bài kiểm tra giữa kì I) 4.2. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết Tìm đọc và nghiên cứu kĩ SGK, các tài liệu có liên quan đến phương pháp “Bàn tay nặn bột”. 4.3. Phương pháp nghiên cứu lý luận Tìm hiểu nguyên tắc, phương thức, phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong giảng dạy. Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Nghiên cứu việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong Sinh học 8. 4.4. Sử dụng phương pháp dạy học trực tiếp Thực hiện các tiết dạy học tại lớp 8A, 8C xây dựng các bài học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Dạy thực nghiệm để đánh giá kết quả của phương pháp “Bàn tay nặn bột” 4.5. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu Từ kết quả khảo sát, tiến hành thống kê, so sánh, phân tích và xử lí thông tin, thu thập ý kiến phản hồi của học sinh và đồng nghiệp để khái quát hóa tình hình nắm bắt kiến thức và kĩ năng của học sinh để đưa ra biện pháp khắc phục. 5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đây là đề tài được tôi áp dụng lần đầu tiên vào giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường THCS Nga Liên II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi mà nền kinh tế tri thức đang dần dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên thế giới. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, khi học sinh đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học. Tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề. Chương trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển nhận định, phương pháp này giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo, phát hiện, giải quyết vấn đề. Vậy phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là gì? “Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. “Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra... Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Mục tiêu của “Bàn tay nặn bột” là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, “Bàn tay nặn bột” còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh. 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Qua việc quan sát, trò chuyện và điều tra tình hình về sự lĩnh hội kiến thức môn Sinh học 8 của học sinh ở trường THCS Nga Liên tôi nhận thấy: Trong thực tế có những học sinh khi học bài mặc dù ghi được rất nhiều nhưng khi học vẫn không đầy đủ kiến thức hoặc không thành hệ thống. Việc học như vậy khiến các em mất nhiều thời gian, học thụ động, chưa đem lại hiệu quả cao. Muốn học sinh học tập tích cực thì giáo viên phải có những phương pháp dạy học thích hợp, thay vì truyền đạt kiến thức cho các em hãy giúp các em biết cách tự tìm lấy tri thức, đây là vấn đề tôi luôn trăn trở, tìm tòi và nghiên cứu. Qua trực tiếp giảng dạy môn Sinh học 8 tại trường THCS Nga Liên tôi thấy rằng đa số học sinh không mấy hứng thú với môn Sinh học dẫn tới việc nắm bắt kiến thức cơ bản và vận dụng vào thực tế chưa tốt. Mặc dù tôi luôn cố gắng nghiên cứu vận dụng tối đa các phương pháp dạy học và tạo không khí vui vẻ, thoải mái trong giờ học. Nguyên nhân đưa đến việc học sinh không nắm bắt được kiến thức cơ bản của bài học và không mấy hứng thú với môn học đó là: Thứ nhất, do học sinh không chú ý vào tiết dạy: Trong giờ học Sinh học các em không mấy hứng thú với môn học, vì môn Sinh học 8 có nhiều đơn vị kiến thức khó và trừu tượng. Thứ hai, trong những năm gần đây thi đầu vào lớp 10 THPT thường thi ba môn Văn, Toán, Tiếng Anh do đó các em có thiên hướng học lệch ba môn trên, coi môn Sinh học là môn học phụ. Bên cạnh đó môn Sinh học 8 là môn học nghiên cứu về chính cơ thể các em nên nhiều học sinh thấy ngại, rụt rè từ đó làm cho các em mất tự tin, dẫn tới chán nản. Thứ ba, một số học sinh có điều kiện hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa, gia đình đông con nên phụ huynh chưa có diều kiện quan tâm đến việc học của con em mình, các em còn phải phụ giúp gia đình dẫn đến các em lĩnh hội kiến thức mới còn chậm. Mặt khác, nhà trường chưa có phòng học học bộ môn và phòng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học. Trang thiết bị nói chung trong các lớp học chưa đầy đủ phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, nhất là còn thiếu các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động báo cáo, thảo luận của học sinh, dụng cụ thí nghiệm còn chưa đồng bộ và thiếu chính xác. Số học sinh trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm rất khó khăn. Cụ thể đầu năm học 2015 – 2016 tôi tiến hành khảo sát chất lượng với nội dung câu hỏi: Bằng thí nghiệm hãy cho biết xương có các thành phần hóa học nào? Và thu được kết quả như sau: Lớp Sĩ số Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu Loại kém SL % SL % SL % SL % SL % 8A 42 2 4,8 5 11,9 17 40,5 12 28,6 6 14,2 8C 46 3 6,5 7 15,2 23 50,0 9 19,6 4 8,7 Với thực trạng như trên, tôi đã mạnh dạn vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy bộ môn Sinh học 8 ở trường THCS Nga Liên trong năm học 2015 – 2016. 3. CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3.1. Tiến trình dạy học áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” Sau đây là các bước của tiến trình dạy học áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” mà tôi đã áp dụng vào giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường THCS Nga Liên. Bước 1: Tổ chức các hoạt động tạo tình huống xuất phát “giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu” kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề Để thực hiện tốt bài dạy theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” trước hết phải bố trí lớp học hợp lí: Bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp, chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ thông tin trên bảng. Khoảng cách giữa các nhóm phải phù hợp, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết. Mục đích là xây dựng không khí làm việc thoải mái, vui vẻ tạo mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các học sinh trong lớp. Tiếp theo giáo viên tổ chức các hoạt động tạo tình huống xuất phát giúp học sinh bộc lộ “quan niệm ban đầu”, kết hợp với các câu hỏi nêu vấn đề: Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa học đặt ra. Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Quan niệm ban đầu của học sinh thường là những biểu tượng còn khái quát chung chung về sự vật, hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự chính xác về mặt khoa học. Do đó giáo viên cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Quan niệm ban đầu của học sinh càng đa dạng, phong phú, càng sai lệch với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh và ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện hơn. Sau khi có các biểu tượng ban đầu phù hợp với ý đồ dạy học, giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó. Đồng thời tạo điều kiện giúp học sinh có thời gian suy nghĩ thêm về ý kiến của mình, so sánh ý kiến cá nhân với các thành viên trong nhóm hay đối với học sinh khác. Ví dụ: Khi dạy bài “Cấu tạo và tính chất của cơ” hình thành quan niệm ban đầu bằng cách yêu cầu học sinh vẽ hình để trả lời câu hỏi: Bắp thịt được gắn với xương như thế nào? Nhóm 2 Nhóm 1 Biểu tượng ban đầu của học sinh Bước 2: Tổ chức hoạt động hình thành câu hỏi của học sinh và kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Làm bộc lộ quan niệm ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức mới. Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số quan niệm ban đầu khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Việc chọn lựa các quan niệm ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn. Trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Câu hỏi của giáo viên có thể là câu hỏi cho từng cá nhân học sinh, câu hỏi cho từng nhóm, câu hỏi chung cho cả lớp. Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình và làm cho tiến trình dạy học đi đúng hướng. Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở". Các câu hỏi "mở" khuyến khích học sinh suy nghĩ tới những câu hỏi riêng và phương án trả lời những câu hỏi đó. Các câu hỏi dạng này cũng mang đến cho nhóm một công việc và một sự lập luận sâu hơn. * Câu hỏi nêu vấn đề Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. Câu hỏi nêu vấn đề còn được gọi là câu hỏi xuất phát, được hình thành qua tình huống xuất phát (hay còn gọi là tình huống nêu vấn đề). Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh. Ví dụ: câu hỏi "Bắp thịt được gắn với xương như thế nào"? không "tốt" bằng câu hỏi "Các xương và bắp thịt được sắp đặt như thế nào trong tay của chúng ta?". Câu hỏi nêu vấn đề thường là câu hỏi nhằm mục đích làm bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh. Giáo viên phải đầu tư suy nghĩ và cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi nêu vấn đề vì chất lượng của câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học. * Câu hỏi gợi ý Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi "đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh. Ví dụ: "Vì sao các em nghĩ các kết quả này khác với những thí nghiệm trước?"; "Theo em, điều gì đã xảy ra?"; "Em giải thích điều đó như thế nào?"; "Làm thế nào để chúng ta có thể tin điều đó là đúng?"... Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như "Theo các em...", "Em nghĩ gì", "Theo ý em" vì các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu học sinh đưa ra một câu trả lời chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến, đưa ra nhận định của các em mà thôi. Ví dụ đặt câu hỏi "Em nghĩ nó sẽ diễn ra như thế nào?" thay cho câu hỏi " Nó sẽ diễn ra như thế nào?". Ví dụ: Khi dạy bài "Cấu tạo và tính chất của xương" để tìm hiểu thành phần hóa học của xương giáo viên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm ngâm xương đùi ếch vào dung dịch axit Clohidric 10%, trả lời các câu hỏi "Theo em điều gì sẽ xảy ra khi ta ngâm xương đùi ếch vào HCl 10%"? "Em giải thích điều đó như thế nào"? Hoặc làm thí nghiệm đốt xương đùi ếch yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi "Theo các em sẽ có hiện tượng gì xảy ra"? "Em nghĩ gì về điều này"?... Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý giúp học sinh rút ra kết luận của bài "Theo em xương có những thành phần hóa học nào"? Bước 3: Xây dựng giả thuyết, thiết kế phương án thực nghiệm thông qua thảo luận và hoạt động nhóm Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị các em đề xuất các giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để kiểm chứng các giả thuyết nhằm tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Tùy theo kiến thức hay vấn đề đặt ra mà học sinh có thể đề xuất các phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu khác nhau. Trong quá trình đề xuất phương án thực nghiệm, nếu ý kiến của học sinh nêu lên có ý đúng nhưng ngôn từ chưa chuẩn xác hoặc diễn đạt chưa rõ thì giáo viên nên gợi ý và từng bước giúp học sinh hoàn thiện diễn đạt. Sau khi học sinh đề xuất được phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án với các dụng cụ đã chuẩn bị sẵn kết hợp với các hình thức thảo luận, hoạt động theo nhóm. Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ nội dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu. Khi học sinh thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất nhiên không có nghĩa là ồn ào và lộn xộn. Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Ý đồ dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_gay_hung_thu_hoc_ta.doc