SKKN Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12

SKKN Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12

Giáo dục phổ thông là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển tư duy, nhân cách học sinh. Đúng như Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân.” [7, điều 23].

Đáp ứng mục tiêu trên, môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung học Phổ thông (THPT) đã thể hiện ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi lẽ, bộ môn không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho học sinh mà còn cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về Đạo đức, Pháp luật, các vấn đề Chính trị - xã hội có tính thời sự cao. Đây là việc làm quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng học tập, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.

Đứng trước “sứ mệnh” to lớn như vậy thì vai trò của người giáo viên dạy môn GDCD ngày càng được khẳng định. Dạy học được ví như là một “nghệ thuật” và người giáo viên chính là một “nghệ sĩ”. Mỗi “nghệ sĩ” sẽ có những cách thức khác nhau khi truyền tải kiến thức đến học sinh. Có người sẽ tạo được hứng thú, hiệu quả học tập rất cao cho học sinh nhưng cũng không ít trường hợp ngược lại. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập cho học sinh đang là vấn đề mà toàn ngành giáo dục và xã hội quan tâm.

 

doc 24 trang thuychi01 17325
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 I. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển tư duy, nhân cách học sinh. Đúng như Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân.” [7, điều 23].
Đáp ứng mục tiêu trên, môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung học Phổ thông (THPT) đã thể hiện ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi lẽ, bộ môn không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho học sinh mà còn cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về Đạo đức, Pháp luật, các vấn đề Chính trị - xã hội có tính thời sự cao. Đây là việc làm quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng học tập, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Đứng trước “sứ mệnh” to lớn như vậy thì vai trò của người giáo viên dạy môn GDCD ngày càng được khẳng định. Dạy học được ví như là một “nghệ thuật” và người giáo viên chính là một “nghệ sĩ”. Mỗi “nghệ sĩ” sẽ có những cách thức khác nhau khi truyền tải kiến thức đến học sinh. Có người sẽ tạo được hứng thú, hiệu quả học tập rất cao cho học sinh nhưng cũng không ít trường hợp ngược lại. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập cho học sinh đang là vấn đề mà toàn ngành giáo dục và xã hội quan tâm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều giáo viên dạy GDCD khi lên lớp với một tâm thế hời hợt, dạy qua loa, chiếu lệ Việc đổi mới phương pháp dạy học còn chậm hoặc hình thức. Từ đó, làm cho học sinh không có hứng thú với bài học. Đặc biệt, với những kiểu bài thuộc phạm trù Đạo đức, Pháp luật có những kiến thức các em đã được làm quen ở lớp dưới (chẳng hạn như kiến thức về Hôn nhân và Gia đình). Không những thế, những kiểu bài về Pháp luật thường khô khan, khó nhớ nên việc giáo viên chỉ dạy theo phương pháp truyền thống đọc – chép, thuyết trình thì sẽ làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán và mệt mỏi. 
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi là một giáo viên, đang trực tiếp giảng dạy môn GDCD ở trường THPT, tôi luôn trăn trở làm sao để học sinh hứng thú khi học bộ môn, tiếp nhận tri thức bộ môn một cách nhẹ nhàng và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số phương pháp mới trong đó có sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực khi giảng dạy. Qua thực tế dạy học những kiến thức về Đạo đức, Pháp luật đặc biệt là khi dạy về quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” tôi nhận thấy việc sử dụng những kĩ thuật dạy học tích cực đã mang lại hiệu quả đáng kể. 
Tôi chọn đề tài: “ Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12. ” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, nhưng đó chỉ là những kinh nghiệm chủ quan của cá nhân tôi. Vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự ủng hộ và góp ý chân thành từ đồng nghiệp.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nội dung kiến thức ở môn GDCD lớp 12 là toàn bộ những tri thức về Pháp luật. Đó là những nội dung gần gũi với học sinh và ít nhiều các em đã được biết đến ở cấp học dưới. Do đó, học sinh rất dễ dàng tiếp cận kiến thức. Tuy nhiên, nếu người thầy không biết cách tổ chức hợp lý, đa dạng các hoạt động học thì rất dễ gây nhàm chán cho học sinh. Mặt khác, đối với học sinh lớp 12, các em chuẩn bị ra trường, là một công dân trưởng thành, các em rất cần nắm vững các quy phạm pháp luật. Các em cần thiết phải biết mình có quyền gì, nghĩa vụ như thế nào đối với bản thân, gia đình và xã hội. Nếu người thầy không biết cách tạo cảm hứng, làm học sinh chán học thì những quy phạm pháp luật ấy sẽ chẳng thể nào truyền tải đến học sinh. Vì vậy, có thể nói chất lượng của quá trình dạy học phụ thuộc rất lớn vào khả năng tổ chức hoạt động học của người thầy. 
Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ đạt được hai mục đích cơ bản:
+ Thứ nhất, góp phần nâng cao nhận thức về tác dụng của việc sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12.
+ Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú học tập trong học sinh.
 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, tôi tổng kết vấn đề sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12. Đối tượng cụ thể đó là các em học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
 Khi thực hiện đề tài tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, nhằm thu thập thông tin về lý luận.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dự giờ, thăm lớp, thiết kế bài thực nghiệm, trực tiếp lên lớp, phân tích các số liệu thống kê.
 - Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: xây dựng câu hỏi, bảng biểu, xử lý số liệu nhằm tìm hiểu thực trạng của quá trình dạy học môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp thống kê toán học: xử lý kết quả thu được qua thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá chất lượng và hiệu quả của quá trình thực nghiệm.
II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của vấn đê
2.1.1 Lý luận chung về Kĩ thuật dạy học tích cực 
Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, cho nên việc đổi mới giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần thiết. “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” [7, điều 28]
Trong những năm gần đây ngành Giáo dục đã, đang đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học. Do đó phương pháp và hình thức dạy học nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng rất đa dạng và phong phú. Nó bao gồm các phương pháp hiện đại (nghiên cứu trường hợp điển hình, dự án, hợp đồng, thảo luận nhóm, đóng vai) và các phương pháp truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện). Bên cạnh những phương pháp dạy học lại có các kĩ thuật dạy học hỗ trợ. Mỗi khi dạy học một bài hoặc một chủ đề nào đó, giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau miễn sao phải phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh.
Phương pháp dạy học là những cách thức, con đường dẫn đến mục tiêu của bài học. Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình huống hoặc hoạt động nhằm thực hiện giải quyết một nhiệm vụ hoặc nội dung cụ thể. [9] 
Kĩ thuật dạy học tích cực là một thuật ngữ được dùng dể chỉ những kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. 
Bản chất của việc dạy học có sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực là nhằm khai thác động lực học tập ở người học để phát triển chính họ. Mặt khác, coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho họ thích ứng với đời sống xã hội.
Áp dụng phương pháp dạy học tích cực, trong đó sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, đem lại cho người học hứng thú, niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý học sinh THPT là ưa thích hoạt động tìm tòi, khám phá. Việc học đối với học sinh một khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo.
2.1.2 Lý luận về một số Kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12.
2.1.2.1 Kĩ thuật động não không công khai.
* Giới thiệu: 
Động não không công khai là một hình thức biến đổi của thảo luận viết, mỗi thành viên của nhóm viết ra ý nghĩ của mình để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không công khai và không tham khảo người khác, sau đó nhóm mới tiến hành thảo luận chung.
* Dụng cụ: 
Giấy, bút cho các thành viên trong nhóm.
* Thực hiện: 
- Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho nhóm, quy định thời gian làm việc cá nhân để giải quyết vấn đề trước khi thảo luận nhóm.
- Sau khi hoàn tất việc làm cá nhân, lần lượt từng người trình bày ý kiến.
- Bắt đầu thảo luận khi tất cả thành viên đã trình bày xong ý kiến.
* Lưu ý:
Trong quá trình động não, cá nhân không được tham khảo ý kiến của các thành viên khác trong nhóm.
* Ưu điểm:
- Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào.
- Hữu ích khi sử dụng để thu thập thông tin phản hồi.
* Hạn chế:
Do không được quyền tham khảo ý kiến các thành viên khác nên các ý kiến tham gia có thể lạc đề, lan man hoặc chú trọng những vấn đề tiểu tiết.
2.1.2.2 Kĩ thuật KWL
* Giới thiệu:
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Là sơ đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức học được sau bài học.
Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài học. Thông tin nay sẽ được ghi nhận vào cột K (Know – điều đã biết) của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W (Want to know– điều muốn biết) của biểu đồ. Trong quá trình học hoặc sau khi học xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L (Learned – điều đã học được).
* Dụng cụ:
Bảng KWL của Giáo viên; Phiếu học tập KWL của học sinh.
* Thực hiện:
- Bước 1: Sau khi giới thiệu bài học hoặc chủ đề Giáo viên phát phiếu học tập KWL cho học sinh. (Kĩ thuật này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc nhóm học sinh).
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh điền các thông tin vào phiếu học tập.
- Bước 3: Học sinh điền các thông tin vào phiếu KWL
Tên bài học/chủ đề: .
Tên học sinh/nhóm học sinh: ..
Lớp: . Trường: .
K
(Know – Điều đã biết)
W
(Want to know – 
Điều muốn biết)
L
(Learned – 
Điều đã học được)
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
+ Yêu cầu học sinh viết vào cột K những gì các em đã biết liên quan đến bài học/chủ đề.
+ Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học/chủ đề.
- Bước 4: Sau khi kết thúc bài học/chủ đề học sinh điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được. Lúc này, học sinh xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học rồi đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học.
* Lưu ý:
- Khi sử dụng kĩ thuật KWL đối với nhóm học sinh thì trước khi học sinh điền thông tin vào cột K, Giáo viên phải yêu cầu học sinh trao đổi, thống nhất ý kiến trong nhóm.
- Khi mới áp dụng kĩ thuật KWL, có thể dùng các câu hỏi gợi ý để học sinh có thể viết những gì các em đã biết, muốn biết và đã học được vào các cột tương ứng.
* Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn được trang bị thêm hiểu biết, kiến thức, kĩ năng qua bài học.
- Từ việc nhìn lại những gì đã học được sau bài học, học sinh phân tích, đánh giá những thông tin mới được hình thành và nhận thức được sự tiến bộ của mình sau bài học.
2.1.2.3 Kĩ thuật sơ đồ tư duy
* Giới thiệu:
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh đê mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng được liên kết sẽ bao quát được phạm vi sâu rộng. Kĩ thuật sơ đồ tư duy do Tony Buzan đề xuất, xuất phát từ cơ sở sinh lý thần kinh về quá trình tư duy: Não trái đóng vai trò thu thập các dữ liệu mang tính logic như số liệu. Não phải đóng vai trò thu thập dữ liệu như hình ảnh, màu săc, hình dạng
* Dụng cụ:
Bảng lớn, giấy khổ lớn, bút nhiều màu sắc.
* Thực hiện:
Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ, mỗi thành viên lần lượt kết nối ý tưởng trung tâm đến ý tưởng cá nhân, mô tả ý tưởng thông qua hình ảnh, biểu tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn.
* Lưu ý:
- Có nhiều cách tổ chức thông tin theo sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc; sơ đồ mạng; sơ đồ chuỗi Giáo viên nên để học sinh lựa chọn sơ đồ mà các em thích.
- Giáo viên cần đưa câu hỏi gợi ý để thành viên nhóm lập sơ đồ.
- Khuyến khích sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt.
* Ưu điểm:
- Phù hợp với tâm lý học sinh, dễ hiểu, dễ ghi nhớ.
- Rất thích hợp với kiểu bài ôn tập, tổng kết, liên kết lý thuyết với thực tế.
* Hạn chế:
Sơ đồ giấy thường khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.
2.1.3 Một số yêu cầu khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12. 
Môn GDCD ở trường THPT là một hệ thống các kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh vực, trong đó có kiến thức về Pháp luật (GDCD lớp 12). Toàn bộ nội dung chương trình GDCD lớp 12 tập trung phân tích bản chất, vai trò của pháp luật đối với sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội. Đồng thời, cũng chỉ ra một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của mỗi công dân. Trong đó, việc trang bị cho học sinh những kiến thức về quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình là vô cùng cần thiết. Những tri thức này góp phần tích cực vào việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi của người công dân, hình thành và phát triển ở các em những phẩm chắt và năng lực cần thiết của người công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất phát từ ý nghĩa to lớn đó mà việc giảng dạy hiệu quả kiến thức ở vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với mỗi người giáo viên. Tuy nhiên, để làm tốt điều này không phải là một việc đơn giản, đòi hỏi giáo viên cần phải thực hiện được một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, giáo viên phải thực sự nắm vững các kiến thức Pháp luật về Hôn nhân và Gia đình. Để có kiến thức rộng, sâu giáo viên cần phải có sự đầu tư, luôn trau dồi kiến thức, học tập, nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan đến Pháp luật như: Luật Hôn nhân và Gia đình; Bộ luật Hình sự; Bộ luật dân sựvv
Mặc dù yêu cầu cần có kiến thức sâu rộng nhưng trong quá trình giảng dạy người giáo viên cũng không nên ôm đồm kiến thức. Điều này sẽ dễ đẫn đến việc truyền thụ mang tính hàn lâm, khô khan. Từ đó làm cho học sinh không có hứng thú tiếp cận bài học.
Thứ hai, khi giảng dạy kiến thức về Pháp luật, nhất thiết giáo viên phải liên hệ với thực tiễn, phải gắn lý luận với thực tiễn. Những tri thức môn GDCD nói chung và phần Pháp luật nói riêng luôn gắn chặt với tình hình thực tế của đời sống xã hội, sự phát triển của đất nước, của con người Việt Nam. Cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi hàng ngày, hàng giờ sẽ là thực tế sinh động góp phần đắc lực vào việc làm sáng tỏ, chứng minh cho lý thuyết khoa học của bộ môn. 
Tuy nhiên, việc thực tế rất đa dạng và phong phú như vậy lại đòi hỏi người giáo viên khi giảng dạy phải lựa chọn vấn đề sao cho sát với nội dung bài học, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý, trình độ hiểu biết, nhận thức và tư duy của học sinh.
Thứ ba, khi giảng dạy phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản và hiện đại. Tri thức phổ thông là những tri thức thiết yếu đối với cuộc sống, cần phải phổ cập với mọi người. Tri thức cơ bản là hệ thống những tri thức và kỹ năng quan trọng được lựa chọn từ các lĩnh vực khoa học, làm cơ sở vững chắc cho mọi người học tập suốt đời. Tri thức hiện đại là những kiến thức mang tính chuẩn mực, có khả năng ứng dụng và phù hợp với xu thế giáo dục của thế giới. [4]
Đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại trong dạy học Pháp luật chính là trang bị cho học sinh những kiến thức mà các em có thể vận dụng vào cuộc sống của bản thân. Đó là những tri thức phù hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh, sát với mục tiêu giáo dục của trường THPT.
Mặt khác, việc đảm bảo truyền thụ những tri thức mang tính phổ thông, cơ bản, hiện đại còn giúp giáo viên tránh được khuynh hướng giảng dạy vượt quá khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của học sinh hoặc đơn giản hóa những tri thức mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Thứ tư, cần sử dụng triệt để các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại như: máy vi tính, ti vi, máy chiếu, video nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc truyền tải kiến thức. Các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại sẽ làm phong phú thêm tiết dạy, thay đổi cách học, phương pháp học, tạo sự hứng thú, kích thích sự tìm tòi, khám phá của học sinh. Đồng thời, giúp các em phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập.
Thứ năm, như đã đề cập ở trên, quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12 là những kiến thức hàm chứa tri thức về Pháp luật lẫn Đạo đức. Những tri thức này ít nhiều học sinh đã được tiếp cận, làm quen ở lớp học, cấp học dưới. Vì thế, khi giảng dạy ngay từ hoạt động khởi động yêu cầu giáo viên phải làm sao để thu hút sự chú ý, tạo hứng thú cho học sinh tiếp cận tri thức bài học. Trong các hoạt động học tập tiếp theo, giáo viên phải để học sinh thấy được cái mới, cái hay, cái thực tế của nội dung bài học. Tránh việc học sinh nhìn nhận đây là những kiến thức đã học rồi, biết rồi, không cần học nữa. Khi dạy học nội dung này, nếu giáo viên không sử dụng phương pháp phù hợp sẽ rất dễ làm cho học sinh thấy sáo rỗng, khô khan (đúng như cách đánh giá của nhiều người về bản chất của Đạo đức và Pháp luật). Từ đó, các em sẽ thấy bài học nhàm chán và không có hứng thú hoạt động học tập.
Tóm lại, kiến thức phần: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” có vị trí quan trọng trong toàn bộ nội dung chương trình GDCD lớp 12. Vì thế, khi giảng dạy người giáo viên cần phải thực hiện tốt các yêu cầu trên. Điều đó giúp giáo viên truyền thụ tri thức cho học sinh một cách hiệu quả. Đồng thời, giúp học sinh củng cố được ý thức và hành vi của mình, định hướng phát triển và hoàn thiện nhân cách, góp phần tích cực vào việc giáo dục học sinh thành những công dân mới phát triển toàn diện.
2.2 Thực trạng việc sử dụng các Kĩ thuật dạy học tích cực và vấn đề dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12.
Như chúng ta đã biết, môn GDCD có vai trò giáo dục và giáo dưỡng. Nó bao gồm một hệ thống các tri thức khoa học phù hợp với từng đối tượng nhận thức. Nếu như kiến thức của các môn khoa học cơ bản khác cung cấp cho học sinh những nguyên liệu để xây dựng nên lâu đài của tương lai thì kiến thức môn GDCD sẽ là một kiến trúc sư thiết kế toàn bộ lâu đài đó. Nó chỉ cho chúng ta thấy cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục đích. [4]
Tuy nhiên, trên thực tế học sinh lại có tâm lý coi môn GDCD là môn học phụ, không thích học và không cần học. Các em chỉ dành nhiều thời gian cho những môn học nằm trong tổ hợp truyền thống khi xét tuyển vào Đại học, Cao đẳng như: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh. Vì thế, đã thiếu đi sự quan tâm và đầu tư cho môn học này. Bên cạnh đó, kiến thức môn học liên quan đến Pháp luật cho nên rất khô khan, khó hiểu Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không có hứng thú học tập bộ môn.
 Theo kết quả điều tra việc học tập môn GDCD của học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên cho thấy: Có tới 47,8% học sinh nhận xét bộ môn nhàm chán, không thích học; 33,3% học sinh nhận xét bình thường; 12,6% học sinh có hứng thú, thích học và 6,3% học sinh không có ý kiến. Mặt khác, qua thực tế tám năm giảng dạy, tôi nhận thấy tình trạng học sinh không học bài cũ, không xem trước bài mới còn khá phổ biến. Khi yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà, một số học sinh không làm, số học sinh làm bài thì cũng là miễn cưỡng, bắt buộc, làm kiểu đối phó Vì vậy mà hiệu qủa học tập mang lại không cao.
Đặc thù của học sinh THPT là ham học, thích tìm hiểu, khám phá những cái chưa biết, nhưng các em lại không nhận thấy rằng môn GDCD, đặc biệt là phần Pháp luật rất sát với đời sống, cung cấp những ki

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_mot_so_ki_thuat_day_hoc_tich_cuc_nham_nang_cao.doc