SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD 12 ở trường THPT Quan Sơn

SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD 12 ở trường THPT Quan Sơn

 Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy học để kéo người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học, giờ học trở nên thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ người giáo viên nào.

 Câu tục ngữ: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Chính là sự thể hiện tuyệt vời của phương pháp dạy học tích cực mà ngày nay chúng ta đang trang bị, chia sẻ cho nhau. Mục đích là thực hiện được giờ giảng theo hướng hiện đại và hơn hết là giờ giảng hiệu quả, mang lại hạnh phúc cho cả người dạy lẫn người học.

Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ tốt giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người giáo viên phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao tiếp tốt. Chưa kể là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế Cách dạy này thực sự là một áp lực nhưng là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao chất lượng dạy và học.

Môn Giáo dục công dân là môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật trong đời sống. Nhiệm vụ của chúng ta là dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là học những gì chúng ta dạy vì lợi ích thực tiễn của việc học mang lại cho mỗi con người mà ai cũng biết.

Khi chúng ta thay đổi, các em sẽ thay đổi và cả thế giới sẽ thay đổi theo. Việc chúng ta sử dụng phương pháp dạy học tích cực là đã “chuyển mình” trong việc “dạy sao” cho học trò thích học. Chúng ta đã cho bản thân và đồng nghiệp một phương pháp dạy mở, tức là tùy vào bài học, tình hình học sinh của từng lớp mà chúng ta có “cách dạy” sao cho thích hợp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia vào tiết học, ngay từ bài học, phút học đầu tiên. Do vậy tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:

“ Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD12 ở trường THPT Quan Sơn”

 

doc 21 trang thuychi01 13721
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD 12 ở trường THPT Quan Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỤC LỤC
1
PHẦN I : MỞ ĐẦU
2
1. Lí do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
3
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
4
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 
15
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17
1. Kết luận.
17
2.Kiến nghị:
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
 Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy học để kéo người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học, giờ học trở nên thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ người giáo viên nào.
 Câu tục ngữ: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Chính là sự thể hiện tuyệt vời của phương pháp dạy học tích cực mà ngày nay chúng ta đang trang bị, chia sẻ cho nhau. Mục đích là thực hiện được giờ giảng theo hướng hiện đại và hơn hết là giờ giảng hiệu quả, mang lại hạnh phúc cho cả người dạy lẫn người học.
Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ tốt giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người giáo viên phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao tiếp tốt. Chưa kể là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế  Cách dạy này thực sự là một áp lực nhưng là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao chất lượng dạy và học.
Môn Giáo dục công dân là môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật trong đời sống. Nhiệm vụ của chúng ta là dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là học những gì chúng ta dạy vì lợi ích thực tiễn của việc học mang lại cho mỗi con người mà ai cũng biết.
Khi chúng ta thay đổi, các em sẽ thay đổi và cả thế giới sẽ thay đổi theo. Việc chúng ta sử dụng phương pháp dạy học tích cực là đã “chuyển mình” trong việc “dạy sao” cho học trò thích học. Chúng ta đã cho bản thân và đồng nghiệp một phương pháp dạy mở, tức là tùy vào bài học, tình hình học sinh của từng lớp mà chúng ta có “cách dạy” sao cho thích hợp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia vào tiết học, ngay từ bài học, phút học đầu tiên. Do vậy tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: 
“ Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD12 ở trường THPT Quan Sơn”
2. Mục đích nghiên cứu 
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm“Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD12 ở trường THPT Quan Sơn” đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu quả đổi mới phương pháp giảng dạy đối với môn Giáo dục công dân. Qua đó đưa ra một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên và khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu. 
- Một số quan niệm về phương pháp dạy học tích cực và học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn- huyện Quan Sơn- Thanh Hóa.
 4. Phương pháp nghiên cứu. 
- Thông qua kinh nghiệm thực tiễn trong quá giảng dạy và quá trình quan sát hoạt động học tập của học sinh trên lớp.
- Qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân.
- Qua các kênh thông tin: Sách, báo, mạng iternets và các tài liệu chuyên ngành có liên quan.
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
 Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong PPDH tích cực được dùng với tức là hoạt động , chủ động, trái nghĩa với không hoạt động , thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học , nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn , có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được , hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không Thành tựu vì học sinh chưa thích nghi , vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế , thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức , từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò , sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới Thành tựu. Như vậy , việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
  PPDH truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, phương pháp DH này lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire - nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là "Hệ thống ban phát kiến thức", là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao. Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.
 Trích Báo Giáo dục thời đại ngày 10/04/ 2013)
 Tác giả bài viết: TS Võ Hoàng Ngọc.
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
 3.1.Các phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo dục công dân lớp 12
 a. Giải thích các khái niệm
 * Phương pháp và phương pháp dạy học:
+ Phương pháp là thuật ngữ từ tiếng Hy Lạp “methodos”, có nghĩa là con đường, cách thức vận động của sự vật hiện tượng nhằm đạt được mục đích. Nghĩa chung nhất của phương pháp thường được hiểu là cách thức, phương tiện, giải pháp được chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động, nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định. Như vậy có thể hiểu phương pháp là sự đúc kết kinh nghiệm, là khoa học và còn là nghệ thuật sáng tạo mang đậm dấu ấn của chủ thể trong việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp trong từng trường hợp cụ thể.
+ Phương pháp dạy học: Dạy học là hoạt động được đặc trưng bởi quá trình giảng dạy của giáo viên và quá trình học tập của học sinh thông qua một phương pháp đặc thù gọi là phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là việc sử dụng hệ thống phương pháp giảng dạy và việc sử dụng phương pháp học tập nhằm thực hiện mục đích, yêu cầu học tập đề ra phù hợp với cấp học, người học chương trình học cụ thể đã được xác định.
Phương pháp dạy học không vì mục đích tự thân của nó, cũng không được rút ra từ ý muốn chủ quan của người dạy, mà phương pháp dạy học được quy định bởi nội dung, đặc điểm kiến thức của từng bộ môn, từng bài học, người học  Việc sử dụng phương pháp dạy học nào phải được người giáo viên lựa chọn để tổ hợp thành cách thức hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy học, lĩnh hội kiến thức dưới sự chỉ đạo của người thầy ngằm thực hiện nhiệm vụ học.
Phương pháp dạy học quyết định đến sự thành công của quá trình dạy học: Mục tiêu bài học có đạt được hay không, các yêu cầu về kiến thức, về kỹ năng, tư tưởng và năng lực nhận thức. Phương pháp dạy học kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn cao, kỹ năng giao tiếp  làm cho học sinh yêu thích giờ học, môn học và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Phương pháp dạy học tạo nên giá trị, dấu ấn về người thầy trong lòng học sinh  rất khó phai mờ.
* Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương pháp sư phạm hiện đại  là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức, kỹ thuật đề cao chủ thể nhận thức, chủ yếu phát huy tính tự giác, nhiệt tình chủ động của người học, làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, người học được tham gia làm việc, được sáng tạo  giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đề xuất ý kiến, tự nguyện trình bày hay tham gia tranh luận trước tập thể và người dạy.
Thực chất phương pháp dạy học tích cực là hướng tới khả năng chủ động, sáng tạo của người học chứ không phải hướng tới việc phát huy tính tích cực của người dạy, người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học độc lập suy nghĩ thông qua việc thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thâm nhập thực tế theo mục tiêu, nội dung của bài học, người thầy là người tổng hợp hoạt động, ý kiến của người học để xây dựng nội dung bài học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ giảng của một giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò uy tín của người thầy được đề cao hơn. Nhờ áp lực của phương pháp dạy học tích cực, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của từng nội dung bài học phải được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống, câu hỏi của người học trong thời đại thông tin mở rộng và mới mẻ.
Mối quan hệ giữa thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp khi cùng làm việc với nhau, cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của người học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy học được học chứ không bị học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức kinh nghiệm của mình song song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy, bạn bè. Cách học này làm tăng khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều lần so với cách học truyền thống. Từ đó người học được tự tin khám phá năng lực của bản thân mình, có trách nhiệm, biết chia sẻ và tìm thấy vị trí, giá trị của bản thân với cộng đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh đã nói: “Để làm cho tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.
Chỉ khi người học tự mình khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung cho nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thói quen hàng ngày của họ.
Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực, quan hệ thầy trò trong việc dạy và học cũng đổi khác. Người học trở nên chủ động trong việc học; chủ động tìm kiếm kiến thức, có thể thu nhận kiến thức không phải chỉ từ người thầy mà còn từ nhiều nguồn khác nữa. Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển tri thức mênh mông, điều gì cần chọn lọc, sử dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống, vào công việc, như thế nào  Tất cả những điều ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy. Sự thay đổi quan hệ thầy trò trong việc dạy và học này yêu cầu người học cần hiểu rõ mình là ai, mình muốn là người như thế nào sau này và điều gì cần học và muốn học cái gì  Người dạy càng phải phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn, tự học, tự sáng tạo để có thể đảm nhận và xứng đáng trong vai trò mới mà sự phát triển của ngành giáo dục đòi hỏi.
3.2 Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là:
Thứ nhất: Dạy học lấy người học làm trung tâm
Vì lẽ cơ bản, học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục, của dạy học, nhà trường tồn tại là vì học sinh. Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát triển nhân cách của mình, không ai có thể làm thay được. Vị trí trung tâm của học sinh trong quá trình học tập cần phải đặt đúng vị trí của nó như đã vốn có. Việc phát huy tính chủ động, tích cực, khơi dậy tài năng của mỗi một cá nhân học sinh có ý nghĩa không phải chỉ hôm nay mà còn là hành trang cho các em bước vào cuộc sống sau này  Làm được điều này chỉ có thể là mọi hoạt động giáo dục - trong đó trọng tâm là việc dạy học, phải được tiến hành có kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của người giáo viên.
Để thực hiện tốt và có hiệu quả phương pháp dạy học lấy người học (học sinh) làm trung tâm giáo viên cần áp dụng phương pháp day học nêu vấn đề. Tôi đã tiến hành sử dụng trong giảng dạy bài 2: Thực hiện pháp luật.
- Đơn vị kiến thức áp dụng phương pháp dạy học: 
Phần 1: Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
Đối với phần này tôi chỉ áp dụng cho phần tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật.
- Mục tiêu: 
Học sinh nêu được thế nào là thực hiện pháp luật, tỏ thái độ không đồng tình trước những hành vi vi phạm pháp luật.
- Cách tiến hành:
+ Giáo viên cho học sinh biết về tình huống ( chiếu trên màn hình, viết trước trên giấy khổ lớn, hoặc cho học sinh đóng vai).
 Tình huống: Bình và Tú đang vội đi làm, tới ngã tư, thấy đèn đỏ nhưng vắng người qua lại , thấy không nguy hiểm Tú và Bình vượt đèn đỏ.
Hỏi: Em có đồng tình với hai bạn đó không? Tại sao?
+ GV căn cứ vào điều kiện cụ thể của lớp học có thể chia nhóm hoặc không chia nhóm vì tình huống này học sinh có thể làm việc cá nhân.
+ GV cho học sinh thảo luận tình huống
+ GV ghi tóm tắt ý kiến học sinh lên bảng phụ
+ GV nêu tiếp câu hỏi để thảo luận: Em biết thực hiện pháp luật là gì?
+ GV chính xác hóa các ý kiến của học sinh
- Kết luận:
GV định hướng học sinh.
+ Không đồng ý với việc làm của Tú và Bình
+ Vì: Làm như vậy là không tuân thủ Luật Giao thông đường bộ
+ Không vượt đèn đỏ (khi không có sự điều khiển giao thông khác) là quy định ai cũng phải tôn trọng và thực hiện để đề phòng trường hợp bất ngờ va chạm với ai đó, nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân, cho người khác và để rèn thói quen nghiêm túc thực hiện pháp luật.
+ Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sông, trở thành hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
Thứ hai: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Kế hoạch học tập, bài giảng phải được thiết kế trước trong giáo án chứ không phải thực hiện một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Người dạy phải thông báo cho học sinh vào cuối buổi học những công việc cần chuẩn bị cho giờ học kế tiếp, phân công nhiệm vụ rõ ràng, để người học phải có tâm thế chuẩn bị, tham gia và hợp tác. Trong khi tiến hành giờ học, người dạy phải linh hoạt thay đổi các hoạt động cho phù hợp với thực tế giờ học và nội dung bài học, Nhằm kích thích người học hoạt động tích cực, tạo sự hưng phấn cho giờ học. Có như thế, mục tiêu dạy học, bài học mới được đảm bảo thành công.
Phần này giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo nhóm. Tùy vào số lương học sinh từng lớp. GV chia nhóm phù hợp nhất, mỗi nhóm nên có 5 – 6 học sinh. 
- Mục tiêu:
 Từ tình huống ở phần 1: Thế nào là thực hiện pháp luật học GV xây dựng tiếp tình huống ở phần 2: Thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí. 
- Cách tiến hành:
+ GV nêu tình huống:
Tình huống: Dũng 16 tuổi nhưng hay trốn học đi chơi điện tử. Tại đây Dũng bị Thắng (30 tuổi) dụ dỗ hút thuốc phiện và trở thành người nghiện. Dũng và Thắng đã được địa phương giáo dục nhiều lần và đã bị buộc đi cai nghiện nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ma túy. Một lần Dũng và Thắng bị công an bắt quả tang đang sử dụng ma túy. Lập tức cả hai bị lập biên bản và dẫn giải về trụ sở công an phường cùng tang vật. 
	Biết chuyện đó, bà Thanh thắc mắc: Thằng Thắng bị lập biên bản và bị giải về công an phường là đúng rồi. Còn thằng Dũng còn trẻ con lại bị người khác lôi kéo mà thành nghiện thì chỉ vi phạm đạo đức thôi, tại sao chú công an lại lập biên bản và bắt giữ nó.
Hỏi:
1. Em có đồng ý với ý kiến của bà Thanh không? Vì sao
2. Theo em, thế nào là vi phạm pháp luật?
+ GV chia lớp làm nhiều nhóm, giao cho các nhóm thảo luận tình huống trên.
+ Học sinh thảo luận.
+ Đại diện một số nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
+ Các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến.
+ Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung: Căn cứ vào dấu hiệu nào để anh/chị xác định Dũng và Thắng vi phạm pháp luật.
+ Lớp thống nhất đáp án
+ Giáo viên giới thiệu với học sinh Điều 3 Luật Phòng chống ma túy.
- Kết luận:
GV định hướng học sinh nêu được:
Không đồng ý với ý kiến của bà Thanh; vì hành vi của Dũng không chỉ vi phạm đạo đức mà còn vi phạm pháp luật. Căn cứ vào Điều 3 Luật Phòng chống ma túy thì sử dụng trái phép ma túy là vi phạm pháp luật. Dũng và Thắng phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy.
Vi phạm pháp luật có ba dấu hiệu cơ bản.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội, được pháp luật bảo vệ
Thứ ba: Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học trong dạy học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Phương pháp tự học hướng đến việc khơi dậy khả năng suy nghĩ, làm việc, nắm bắt kỷ cương và con đường đi đến kiến thức mới. Muốn làm được điều này học sinh buộc lòng phải làm việc nhiều hơn với sách vở (giáo khoa và sách tham khảo), làm bài tập, tự học ở ngoài trường và lớp  kết hợp với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Bồi dưỡng khả năng tự học chính là sự chuẩn bị cần thiết cho khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn trong việc làm, thực tế sau này của người học, giúp họ có thể tự tin hòa nhập, tự vượt qua những áp lực, khó khăn, hướng đến tương lai của bản thân và sự phát triển của tập thể mà họ là thành viên.
Minh chứng: Những tấm gương tự học vĩ đại
Trích tin giáo dục: 01/11/2014 từ nguồn: diendantoanhoc.
1. Srinivasa Ramanujan (1887-1920) – Nhà toán học huyền thoại
Nhà toán học người Ấn Độ Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về toán học lý thuyết nhưng đã có nhiều đóng góp cho toán học như giải tích, lý thiết số, dãy số vô hạn
2. Michael Faraday (1791–1867) – Thiên tài tự học là chính Michael Faraday được đánh giá là một trong những nhà khoa học có tầm ảnh hưởng lớn nhất mọi thời đại. Thế nhưng, hầu hết những kiến thức của ông đều là từ tự học.
 Họ đều không có điều kiện để được học hành đầy đủ nhưng bằng chính đam mê và tinh thần ham học hỏi, họ đã thành những vĩ nhân.
Thứ tư: Hoàn thiện học của cá nhân phối hợp với học tập hợp tác tập thể.
Những tri thức mà học sinh khám phá dễ mang tính chủ quan, phiến diện, do vậy các em cần trao đổi, hợp tác tri thức cá nhân được kiểm nghiệm tăng tính khách quan và khoa học. Đồng thời tạo thói quen giao tiếp, khả năng thuyết phục, lắng nghe, nói trước đám đông  ý thức hợp tác, chia sẻ và tính kỷ luật 
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên quan hệ bình đẳng giữa người học và môi trường học tập an toàn là điều kiện để xây dựng tình bạn, tính cạnh tranh lành mạnh, thói quen chia sẻ, tính trách nhiệm. Xây dựng quan hệ thầy - trò - bạn bè tốt đẹp không chỉ lúc còn đi học mà cả trong cuộc sống và công việc sau này.
Thứ năm: Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
Trong quá trình dạy học, đánh giá học sinh là rất quan trọng để giáo viên nắm bắt được thực trạng học tập của học sinh và điều chỉnh việc dạy sao cho phù hợp hơn, đạt kết quả cao hơn. Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá khả năng, sự hiểu biết của mình để điều chỉnh việc học; giáo viên phải tạo điều kiện thuận lợi để người học đ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_vao_giang_day_mon.doc