SKKN Sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng dạy một số bài GDCD lớp 12

SKKN Sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng dạy một số bài GDCD lớp 12

Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.

Thứ nhất: Nội dung, chương trình môn GDCD khô khan, nhiều kiến thức trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy không gây được sự hứng thú đối với người học.

Thứ hai: Cơ chế thị trường đã len lỏi vào trong nhận thức của các em học sinh và gia đình chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học. Các em xem nhẹ môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối phó. Bên cạnh đấy bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ nhàm chán và ngại học. Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mối giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học.

 

doc 14 trang thuychi01 21656
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng dạy một số bài GDCD lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
 SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ
TRONG GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI GDCD LỚP 12 
1. MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài
Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất: Nội dung, chương trình môn GDCD khô khan, nhiều kiến thức trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy không gây được sự hứng thú đối với người học.
Thứ hai: Cơ chế thị trường đã len lỏi vào trong nhận thức của các em học sinh và gia đình chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học. Các em xem nhẹ môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối phó. Bên cạnh đấy bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ nhàm chán và ngại học. Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mối giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học.
Với yêu cầu dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, học sinh không chỉ đạt được những yêu cầu cơ bản về kiến thức mà còn phải đạt được những yêu cầu tối thiểu về kĩ năng của môn học, bài học. Do đó, học sinh không chỉ nắm, hiểu về nội dung mà còn phải biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tiễn. Việc đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng cũng không dừng lại ở mức độ nhận biết, thông hiểu mà còn đánh giá ở mức độ vận dụng.
Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua đó, học sinh có thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy động, khai thác tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên, khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Để làm được điều đó, ngoài các phương pháp như: Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề, thảo luận nhóm.thì phương pháp tình huống có vấn đề là một phương pháp có 
thể phát huy được tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên, không phải bất kì bài nào cũng có thể sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề và chỉ rập khuôn theo một cách. Chọn phương pháp cho một tiết học là không khó nhưng làm sao để sử dụng phương pháp đó một cách có hiệu quả thì là cả một vấn đề cần bàn luận, nghiên cứu.
Qua 14 năm tham gia giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT Quan Hóa, bản thân tôi nhận thấy được những vấn đề trên. Do đó với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi muốn giúp học sinh không chỉ làm quen với kiến thức pháp luật cụ thể mà còn hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn, hình thành cho học sinh thói quen, kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tiễn; tạo điều kiện cho học sinh có thêm hiểu biết về pháp luật Việt Nam; góp phần khắc phục tính triết lí, khô khan của môn học, để tiết dạy-học môn Giáo dục công dân trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Những suy nghĩ ấy đã thôi thúc tôi chọn đề tài: phương pháp tình huống có vấn đề khi giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD lớp 12. Tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Với đề tài sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề tôi nhằm hướng đến các mục đích sau:
+ Nâng cao phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy, nâng cao hứng thú cho người học.
 	+ Việc sử dụng các phương pháp dạy học tiến bộ trên sẽ nâng cao tính chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học... Đồng thời, giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách hiệu quả; nâng cao năng lực phân tích, giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp. 
+ Qua nội dung môn học giúp học sinh phát triển năng lực thích ứng được với cuộc sống bên ngoài, có được lối sống đẹp, đúng pháp luật, có cách ứng xử hay với những trường hợp cụ thể xảy ra trong cuộc sống.
	+ Đánh giá được thực trạng việc dạy và học tập môn Giáo dục công dân 12 của học sinh ở trường Trung học phổ thông. Thông qua đó, nâng cao ý thức và hứng thú học tập môn Giáo dục công dân cho các em.
+ Vận dụng nội dung nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy môn GDCD lớp 12 nói riêng và cả chương trình GDCD THPT nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 	Nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng một cách linh hoạt một số phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển năng lực vào giảng dạy phần “Công dân với pháp luật - môn GDCD lớp 12’’, trong đó tập trung vào việc sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Đồng thời nghiên cứu nội dung chương trình Giáo dục công dân lớp 12, việc dạy của giáo viên và học tập của học sinh đối với môn học. Từ đó vận dụng một cách linh hoạt phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển năng lực vào giảng dạy trong từng tiết học để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của bộ môn ở trường THPT.
Học sinh khối 12 trường THPT Quan Hóa trong các năm học 2016-2017; 2017- 2018; 2018- 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 - Sử dụng kết hợp phương pháp tình huống có vấn đề với các phương pháp nghiên cứu của phép biện chứng duy vật: Lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết nội dung đề tài. 
 - Đặc biệt là phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học trên lớp, giao bài tập, củng cố bài học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài kết hợp với kiểm tra, đánh giá). 
- Gắn lý luận với thực tiễn.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận 
 	Phương pháp tình huống có vấn đề là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt ra.
 	Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt chuyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để chứng minh một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống trong dạy học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huống thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. 
 Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội
 * Thuận lợi
+ Chương trình GDCD lớp 12, phần "Công dân với pháp luật” có nhiều nội dung phù hợp với việc sử dụng các phương pháp dạy học nhóm, phương pháp động não, phương pháp dạy học qua trải nghiệm và khám phá, phương pháp đóng vai và Phương pháp tình huống có vấn đề. 
 + Cơ sở vật chất nhà trường đã được trang bị tương đối đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhóm, hoạt động trải nghiệm và khám phá như: phòng học đạt chuẩn cho học sinh hoạt động, có trang bị máy vi tính, máy chiếu, bảng phụ ...
 + Giáo viên và học sinh có điều kiện thuận lợi khi tiếp cận với nguồn thông tin về cuộc sống xã hội từ nhiều phương tiện khác nhau làm tư liệu cho quá trình học tập.
 + Phương pháp dạy học này đã khắc phục được tình trạng học tập nhàm chán, thụ động, ỉ lại trong học tập. Vì vậy mà đã gây được hứng thú cho người học, kích thích, phát huy tư duy tích cực của học sinh.
 + Việc sử dụng các phương pháp dạy học tiến bộ trên sẽ nâng cao tính chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học... Đồng thời, giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách hiệu quả; nâng cao năng lực phân tích, giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp. 
 * Khó khăn
 	+ Lâu nay, môn GDCD thường được nhiều học sinh, phụ huynh và đôi khi kể cả người dạy cũng mang tâm lý coi đây là môn phụ. Môn GDCD lớp 12, phần thứ nhất: “Công dân với pháp luật” mang đậm tri thức pháp luật với những khái niệm có phần khô khan , khó nhớ. 
	+ Học sinh thuộc địa bàn miền núi nên khả năng nắm bắt thông tin còn nhiều hạn chế.
	+ Học sinh còn quen với phương pháp truyền thống: thụ động, ỷ lại, chỉ nắm những vấn đề khi được giáo viên cung cấp.
	+ Với học sinh lớp 12, khả năng tư duy, lý luận, phân tích, đánh giá  một vấn đề mang tri thức pháp luật là cực kỳ khó. 
	+ Khả năng nắm, hiểu và giải thích được một số khái niệm pháp luật là rất khó đối với các em.
	+ Đa số học sinh chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhớ kiến thức.
	+ Hệ thống câu hỏi bài tập vận dụng trong sách giáo khoa còn ít.
 	+ Đa số học sinh không có thói quen tự trả lời các câu hỏi hay tự giải các bài tập trong sách giáo khoa.
 	+ Sự hiểu biết về pháp luật ở học sinh còn hạn chế.
 	+ Khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề cụ thể là không có.
	Vì vậy, sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng giạy pháp luật gdcd 12” để giúp học sinh hiểu, khắc sâu hơn kiến thức; giúp học sinh hình thành khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn là rất cần thiết. Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy thôi thúc tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này.
2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề
* Cách tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có thể là:
- Học sinh đọc (xem hoặc nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về nó.
- Giáo viên đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống.
-Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
 * Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề.
- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B?....Vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn, khái quát hơn.
- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống cuộc sống, nghề nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở nhiều hướng giải quyết.
- Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề và có thể có liên quan đến nhiều phương diện.
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ thể.
- Tình huống cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, không phải bao giờ cũng có những giải pháp duy nhất đúng.
- Đôi khi, nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng đĩa mà không phải dựa trên dạng chữ viết.
* Áp dụng “phương pháp tình huống có vấn đề” trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Quan Hóa.
Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ nêu lên thực tiễn áp dụng ở Bài 2 và Bài 6 của chương trình GDCD lớp 12 - THPT.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vấn đề là dùng phương pháp nào đem lại hiệu quả giảng dạy tối ưu, học sinh chiếm lĩnh tri thức nhanh nhất và khắc sâu kiến thức nhất. Thông thường khi giảng bài này giáo viên thường đưa ra các tình huống liên quan đến bài học, giáo viên phân tích tình huống và giảng giải sau đó yêu cầu học sinh rút ra kiến thức cơ bản của bài học. Nhưng nếu các đơn vị kiến thức trong bài đều sử dụng một phương pháp thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, không kích thích được sự hứng thú của học sinh.Tuy nhiên cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm để phát huy tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía học trò bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
 	Mặt khác, khi sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy nếu giáo viên chỉ cho học sinh thảo luận các tình huống trong sách giáo khoa thôi thì bài học sẽ mang tính kinh viện và chỉ đạt được một mục đích của bài là về kiến thức còn về thái độ, kỹ năng là chưa có. Xuất phát từ thực tiễn trên khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần xây dựng các tình huống phải sát với thực tiễn cuộc sống và gần gũi với nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “các hình thức thực hiện pháp luật” giáo viên yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau: theo nhóm
Nhóm 1: Bạn Yến Nhi là học sinh lớp 12 a1 ngoài giờ học bạn còn kinh doanh online quần áo trên fb, bạn minh cho rằng bạn Nhi không đc làm thế vì còn nhỏ chưa đủ 18 tuổi nên không có quyền kinh doanh. 
 Hỏi :Ý kiến của em như thế nào?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : đó là quyền sử dụng pháp luật của công dân. Là hình thức thực hiện các quy phạm PL mà các cá nhân, tổ chức, sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà PL cho phép, không phụ thuộc ý chí của người khác.
Nhóm 2 : Mọi người khi ngồi trên mô tô, xe máy,xe đạp điện tự giác đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông đường bộ. bạn Mạnh cho rằng việc đội mũ bảo hiểm thì bảo vệ người đó nếu bạn không đội thì cảnh sát cũng không có quyền bắt bạn ấy. theo em bạn ấy đúng hay sai ? Vì sao?
 	Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : đó là hình thức thi hành PL là các cá nhân, tổ chức trong XH. Các chủ thể bắt buộc phải thực hiện các quy định của PL, phải làm những gì mà PL quy định phải làm nếu không thực hiện xẽ bị xử lí theo quy định của PL.
Nhóm 3 : Một nhóm bạn học sinh đi học về dàn xe đạp hàng ngang trên đường vừa đi vừa cười nói sử dụng điện thoại và che ô .. hành động của các bạn bị cảnh sát giao thông bắt , khi về đồn công an các bạn cho rằng mình không gây tai nạn nên không vi phạm pháp luật. Theo em các bạn có đúng ko vì sao?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : các bạn học sinh đã sai vì không tuân thủ pháp luật .Tuân thủ PL là các cá nhân, tổ chức trong XH. Các chủ thể không làm những gì mà PL cấm. Ở hình thức này chủ thể phải thực hiện quy định của PL, không làm những gì mà PL cấm. Nếu không thực hiện đúng quy định của PL thì sẽ bị xử lí thao quy định của PL.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý” giáo viên yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau:
“ Nam (19 tuổi) đi xe mô tô đến một ngã tư, mặc dù có báo hiệu đèn đỏ nhưng vẫn không dừng lại. Do không tuân theo chỉ dẫn của tín hiệu đèn nên đã bị cảnh sát giao thông bắt dừng lại và yêu cầu xuất trình giấy tờ. Nam đã xuất trình đầy đủ giáy tờ cần thiết nhưng cảnh sát giao thông vẫn lập biên bản và yêu cầu nộp phạt. Nam cho rằng cảnh sát giao thông xử phạt không có tình, có lý. Vì thực tế đường vắng, Nam không gây tai nạn cho ai và xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp pháp.
Hỏi: a. Hành vi của Nam có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
 b. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật gì?
 Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận. Như vậy việc tạo ra tình huống để học sinh tự giải quyết, học sinh sẽ hứng thứ hơn, không lệ thuộc vào sách vở sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh. Tiết học sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 
Bên cạnh đó, cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tôi phát huy tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía học sinh bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Ví dụ: Khi dạy Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản. Giáo viên phân công cho mỗi nhóm 1 tình huống được chuẩn bị sẵn ở nhà. Giáo viên chia lớp thành 5 nhóm ứng với mỗi đơn vị kiến thức trong bài học
Nhóm 1: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ? 
Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ? 
Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ? 
Nhóm 4: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ? 
Nhóm 5: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ? 
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy những tình huống mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động làm việc theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân tích, đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động viên khích lệ tinh thần học tập của các em. Khi giảng tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh đại diện cho nhóm mình trình bày trước lớp kết quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ phân tích, giảng giải và yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
 	Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy ở một số lớp và kết quả là các nhóm đều đưa ra được các tình huống phù hợp với nội dung, ví dụ khi giảng dạy ở lớp 12 .
* Tình huống của nhóm 1: “Do nghi ngờ An lấy cắp xe máy của mình nên Minh đã trình báo với công an xã yêu cầu giải quyết. Dựa vào lời khai của Minh nên công an xã đã ngay lập tức bắt An”.
	Trong tình huống trên công an xã đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Cụ thể: Công an xã bắt người khi không có căn cứ chứng tỏ An là người lấy cắp điện thoại.
Tình huống của nhóm 2: Quan sát các hình ảnh sau và cho biết nội dung của những bức ảnh muốn nói đến điều gì, các bạn học sinh trong ảnh có vi phạm pháp luật không ? vì sao?
Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được pháp luật bảo hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ và quy định thành nguyên tắc trong bộ luật hình sự nước ta.Quyền này có nghĩa là: Công dân có quyền được pháp luật bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm phạm tới. 
+ Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn, côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác
+ Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như giết người, đe dọa giết người, làm chết người.
+ 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_phuong_phap_tinh_huong_co_van_de_trong_giang_da.doc