SKKN Sử dụng kiến thức liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy bài 17 "Lao động và việc làm” - Địa lý 12 cơ bản ở Trường THPT Lê Lợi

SKKN Sử dụng kiến thức liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy bài 17 "Lao động và việc làm” - Địa lý 12 cơ bản ở Trường THPT Lê Lợi

VIỆT NAM, một đất nước địa linh nhân kiệt, rừng vàng biển bạc, tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú. Có thể nói thiên nhiên vô cùng ưu ái đất nước và con người Việt Nam, tạo cho chúng ta lợi thế và điều kiện thuận lợi có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự chuyển biến tích cực do chúng ta đã biết khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên vốn có, đưa ra những chính sách kinh tế thông thoáng, tận dụng những cơ hội đầu tư, đặc biệt là những cơ hội đầu tư nước ngoài. Một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu đã đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước đó là nguồn lao động. Cùng với sự phát triển của đất nước, nguồn lao động cũng có những bước tiến bộ quan trong cả về mặt số lượng và chất lượng. Nguồn lao động Việt Nam đang được đánh giá là một trong những yếu tố thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, thực trạng “ lao động và việc làm đang lại là vấn đề kinh tế -xã hội lớn mang tính chất gay gắt bức xúc ở nước ta hiện nay. Nguồn lao động nước ta ngày càng tăng thì tỉ lệ lao động thiếu việc làm và thất nghiệp ở thành thị và nông thôn, ở các vùng trong cả nước đều tăng” [1]. Do lao động nước ta đông và tăng nhanh nên cho dù mỗi năm nước ta giải quyết được gần 1 triệu việc làm mới nhờ sự phát triển của các ngành và các thành phần kinh tế nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao động.

Mặt khác, việc định hướng nghề nghiệp, việc nhận thức về tình trạng lao động và việc làm của nước ta hiện nay của người lao động nói chung và của những người sẽ là nguồn lao động trong tương lai nói riêng - những học sinh, sinh viên đặc biệt là những học sinh trung học phổ thông, việc này còn rất mơ hồ, chung chung. Chính vì thế đã dẫn đến tình trạng nguồn lao động nước ta tuy đông nhưng tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm nhiều, mặc dù có những khu vực kinh tế, lĩnh vực kinh tế thiếu nguồn lao động nhung nguồn lao động thưa của nước ta lại không thể làm việc đuợc trong khu vực đó, lĩnh vực đó do không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của công việc; nhiều sinh viên ra trường không tìm được việc làm hoặc có đi làm nhưng lại không làm đúng chuyên môn, ngành nghề được đào tạo.

 

doc 24 trang thuychi01 7921
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng kiến thức liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy bài 17 "Lao động và việc làm” - Địa lý 12 cơ bản ở Trường THPT Lê Lợi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
NỘI DUNG
Trang
A. PHẦN MỞ  ĐẦU
1
 Lý do chọn đề tài:
1
 Mục đích nghiên cứu
2
 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
2
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3
I.CƠ  SỞ LÍ LUẬN.
3
1. Một số khái niệm cơ bản
3
a. Dân số: 
3
b. Nguồn lao động 
3
- Dân số hoạt động kinh tế 
3
- Dân số không hoạt động kinh tế 
3
c. Việc làm : 
3
d. Trình độ giáo dục của nguồn lao động : 
4
e. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động: 
4
 f. Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế: 
5
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
6
a. Thực trạng vấn đề nguồn lao động và việc làm ở nước ta.
6
b. Thực trạng về vấn đề nhận thức của học sinh lớp 12 về vấn đề lao động và việc làm hiện nay.
8
II. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
9
1. Phần phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
9
2. Đối với phần phương huớng giải quyết việc làm:
12
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
14
IV.GIÁO ÁN MINH HOẠ.
15
C. KẾT LUẬN.
19
D. KIẾN NGHỊ
20
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
VIỆT NAM, một đất nước địa linh nhân kiệt, rừng vàng biển bạc, tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú. Có thể nói thiên nhiên vô cùng ưu ái đất nước và con người Việt Nam, tạo cho chúng ta lợi thế và điều kiện thuận lợi có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự chuyển biến tích cực do chúng ta đã biết khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên vốn có, đưa ra những chính sách kinh tế thông thoáng, tận dụng những cơ hội đầu tư, đặc biệt là những cơ hội đầu tư nước ngoài. Một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu đã đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước đó là nguồn lao động. Cùng với sự phát triển của đất nước, nguồn lao động cũng có những bước tiến bộ quan trong cả về mặt số lượng và chất lượng. Nguồn lao động Việt Nam đang được đánh giá là một trong những yếu tố thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. 
Tuy nhiên, thực trạng “ lao động và việc làm đang lại là vấn đề kinh tế -xã hội lớn mang tính chất gay gắt bức xúc ở nước ta hiện nay. Nguồn lao động nước ta ngày càng tăng thì tỉ lệ lao động thiếu việc làm và thất nghiệp ở thành thị và nông thôn, ở các vùng trong cả nước đều tăng” [1]. Do lao động nước ta đông và tăng nhanh nên cho dù mỗi năm nước ta giải quyết được gần 1 triệu việc làm mới nhờ sự phát triển của các ngành và các thành phần kinh tế nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao động.
Mặt khác, việc định hướng nghề nghiệp, việc nhận thức về tình trạng lao động và việc làm của nước ta hiện nay của người lao động nói chung và của những người sẽ là nguồn lao động trong tương lai nói riêng - những học sinh, sinh viên đặc biệt là những học sinh trung học phổ thông, việc này còn rất mơ hồ, chung chung. Chính vì thế đã dẫn đến tình trạng nguồn lao động nước ta tuy đông nhưng tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm nhiều, mặc dù có những khu vực kinh tế, lĩnh vực kinh tế thiếu nguồn lao động nhung nguồn lao động thưa của nước ta lại không thể làm việc đuợc trong khu vực đó, lĩnh vực đó do không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của công việc; nhiều sinh viên ra trường không tìm được việc làm hoặc có đi làm nhưng lại không làm đúng chuyên môn, ngành nghề được đào tạo.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng kiến thức liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy bài 17"Lao động và việc làm”- Địa lý 12 cơ bản ở Trường THPT Lê Lợi ” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình nhằm 1 phần nào đó cung cấp kiến thức cho học sinh và cũng góp phần định hướng nghề nghiệp cho các em không chỉ phù hợp với năng lực, sở thích của từng em mà còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. 
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tôi hi vọng cung cấp cho học sinh những thông tin về nguồn lao động và đặc điểm nguồn lao động Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp để khắc phục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt ngay từ khi các em còn đang học trong trường trung học phổ thông để có thể đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại đất nước trong thời gian tới. Từ đó giúp các bạn trẻ cũng như mọi người có thể định hướng tốt về nghề nghiệp trong tương lai của mình thông qua thực trạng việc làm của nước ta hiện nay.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
Trong khuân khổ bài viết này, vì điều kiện thời gian (Vừa công tác vừa nghiên cứu) và do năng lực bản thân còn hạn chế; nên tôi chỉ mạnh dạn nêu lên vấn đề: “Sử dụng kiến thức liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy bài 17 "Lao động và việc làm” - Địa lý 12 cơ bản ở Trường THPT Lê Lợi” với thiết tha mong muốn, tìm cho mình những kinh nghiệm nhỏ để cùng đồng nghiệp thực hiện tốt công tác giáo dục, định hướng tốt về nghề nghiệp trong tương lai của học sinh thông qua thực trạng việc làm của nước ta hiện nay.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ  SỞ LÍ LUẬN.
1. Một số khái niệm cơ bản
a. Dân số: Là tổng số người đang tồn tại và phát triển trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (một nước, một châu lục hay toàn cầu) tại một thời điểm xác định.
b. Nguồn lao động (hay lực lượng lao động): Là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định thực tế có tham gia lao động. Nguồn lao động được chia thành 2 nhóm: Nhóm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế [2]
- Dân số hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm. Như vậy vơí khái niêm trên có thể hiểu dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động nó bao gồm hai phần. Một là những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm trong các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, biểu hiện của việc làm đó là tạo ra được thu nhập mà hoạt động tạo thu nhập này không bị pháp luật cấm, ngoài ra còn cả những hoạt động cuả bộ phận dân số không trực tiếp tạo ra thu nhập nhưng lại trực tiếp giúp cho người thân, gia đình tạo thu nhập. Hai là những người đang trong độ tuổi lao động không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm và luôn sẵn sàng làm việc (như vậy ngược với phần trên thì bộ phận dân số này là những người không tạo ra được thu nhập nhưng luôn tìm cách để tạo ra thu nhập). Ngoài ra khi nghiên cứu về lao động ta còn thường sử dụng khái niệm về dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua: là những người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc và ngày ngày có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày, nếu nhỏ hơn 183 ngày là dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên. [3] 
- Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt đông kinh tế vì các lí do: đang đi học , hiện đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình, .... Ngoài ra tuỳ theo tình trạng việc làm, dân số hoạt động kinh tế được chia thành hai loại: người có việc làm và người thất nghiệp. [4]
c. Việc làm : Để hiểu rõ khái niệm và bản chất của việc làm ta phải liên hệ đến phạm trù lao động vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, đời sống con người, lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Con người không thể sống khi không có lao động. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng lực của con người nó bao gồm cả thể lực và trí lực, nó là yếu tố tích cực đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình lao động, là yếu tố khởi đầu, quyết định trong qúa trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động. Bản thân cá nhân mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm. [5]
Như vậy việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân. Nhưng với khái niệm việc làm như trên thì chưa được coi là đầy đủ vì con người chỉ có thể tồn tại trong gia đình và xã hội, do đó việc làm được hiểu theo một cách hoàn chỉnh đó là ngoài phần người lao động tạo ra cho xã hội còn phải có phần cho bản thân và gia đình nhưng điều cốt yếu là việc làm đó phải được xã hội thừa nhận(được pháp luật thừa nhận). Như vậy một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm sau: đó là những công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là những công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình, hoạt động đó phải được pháp luật thừa nhận. Tuỳ từng cách phân loại mà ta có các hình thức việc làm ở đây ta chỉ tiếp cận hai hình thức sau: [6]
 • Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. [7]
• Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Với việc nghiên cứu đặc điểm, khái niệm và phân loại việc làm giúp cho ta hiểu rõ hơn về việc làm từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá một cách sâu hơn nhằm xác định được các mục tiêu và giải pháp trong việc lập kế hoạch việc làm. [8]
d. Trình độ giáo dục của nguồn lao động : là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ giáo dục của nguồn lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng của nguồn lao động. Chỉ tiêu này được xác định bởi số năm học trung bình, số học sinh và sinh viên, tỷ trọng chuyên gia có trình độ giáo dục trung cấp và cao cấp Để xã hội phát triển đòi hỏi không chỉ sự tương thích trình độ tư liệu sản xuất, mà còn cả sự phát triển vượt trội của người lao động, của các cá nhân, trước hết bằng con đường học tập. Vai trò và ý nghĩa của đất nước trong thế giới ngày nay xác định không chỉ là tiềm năng an ninh và kinh tế, mà còn là tiềm năng trí tuệ. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường ngắn nhất đi đến sự phồn vinh là thông qua giáo dục. Trình độ giáo dục cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 
e. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động: là sự hiểu biết, có khả năng thực hành về chuyên môn, kỹ thuật nghề nghiệp để tham gia các họat động lao động. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động được thể hiện qua tỷ lệ dân số đã qua các lớp đào tạo nghề, qua đào tạo sơ cấp kỹ thuật, công nhân kỹ thuật. Thực tế cho thấy chỉ có lực lượng lao động đông và rẻ không thể tiến hành được công nghiệp hóa mà đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. 
 f. Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế: Trong những năm 1950 và 1960, tăng trưởng kinh tế là do công nghiệp hoá: thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là khâu chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ có một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể giải thích bởi khía cạnh đầu vào là nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng nguồn lao động (trình độ giáo dục, sức khoẻ và mức sống). Đầu tư cho con người nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội từ đó nâng cao năng suất lao động. Lịch sử các nền kinh tế trên thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng tưởng kinh tế cao trước khi thành đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. Cách thức để thúc đẩy sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả giáo dục. Các nước và lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Hàn Quốc, Singapo và Hồng Kông và một số nước khác có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỉ 1970 và 1980 thường đạt mức độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật Bản và Hàn Quốcc trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn mà còn do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý của họ. Do đó giáo dục phải được đề cao hơn nữa (đặc biệt là giáo dục đại học) như là một điều kiện cần để phát triển kinh tế. Kết quả giáo dục cùng với sự cạnh tranh trong giáo dục đại học sẽ thúc đẩy các ngành kinh doanh của các nước đang phát triển thu hút những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức mạnh khoa học kĩ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những mơ ước và những ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Thực tế cho thấy gần đây nhiều sản phẩm của các nước Châu Á sản xuất ra không cần giấy phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do người Châu Á sản xuất ra đã đi khắp thị trường thế giới. Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ lại phụ thuộc vào điều kiện giáo dục. Đã có rất nhiều bài thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập tiến tiến khi tiềm lực và khoa học công nghệ yếu, thiếu đội ngũ kỹ thuật và công nhân lành nghề và do đó không thể ứng dụng các công nghệ mới. Không có sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo các nguồn nhân lực quý giá cho đất nước để phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với các nước khác . Như vậy, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ nhằm biến đổi cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất như trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng đó mang nội dung mới trên cơ sở các quan hệ sản xuất, khoa học và công nghệ. Những phát minh khoa học ở thời kỳ này ngay lập tức được ứng dụng vào sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng thay đổi nhanh chóng quy trình sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tạo ra hàm lượng thông tin và tri thức trong tổng chi phí sản xuất cao. Yếu tố mới xuát hiện và trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thông sản xuất hiên đại chính là thông tin và tri thức. Các số liệu thống kê năm 1990 phản ánh phần đóng góp thông tin, tri thức trong thu nhâp quốc dân của Hoa Kỳ là 47,4%, Anh 45,8%, Pháp 45,1%, Đức 40,4%. Trí tuệ trở thành động lực cho toàn bộ tương lai nhân loại, thúc đẩy sự tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng mới, hiếm thấy so với trước đây. Kinh nghiệm về quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các nước trên thế giới lá bài học quý báu cho chúng ta trong việc khai thác tiềm năng của nguồn lao động nước ta. 
	2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	a. Thực trạng vấn đề nguồn lao động và việc làm ở nước ta.
 Việt Nam là một nước đông dân, cơ cấu dân số trẻ. Do đó, nước ta có nguồn lao đông dồi dào. Năm 2005 có 42,53 triệu lao động chiếm 51,2 % tổng dân số. Tính đến ngày 1/7/2011 cả nước có 54,1 triệu lao động chiếm 58,5% tổng số dân. Hay trong năm 2016 mới đây, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động Quý 2 ước tính là 47,55 triệu người, tăng 227,5 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Điều này chứng tỏ nguồn lao động nước ta tăng nhanh. Trong khi tỉ lệ gia tăng nguồn lao động đạt khoảng 3%/năm, thời kì 1999 - 2005 là 2,13%/năm thì tốc độ gia tăng nguồn lao động là 2,4% (năm 2005). Như vậy tốc độ gia tăng nguồn lao ở nước ta nhanh hơn tốc đọ gia tăng dân số tự nhiên và mặc dù gia tăng dân số tự nhiên đã giảm nhưng hằng năm nguồn lao động vẫn được bổ sung thêm khoảng hơn 1 triệu lao động.
Tuy nhiên nguồn nhân lực dồi dào không có nghĩa là thị trường Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Lao động nước ta đông và tăng nhanh hơn khả năng tạo việc làm của nền kinh tế nên cho dù mỗi năm nhà nước giải quyết được gần một triệu viêc làm mới nhờ sự phát triển của các ngành và các thành phần kinh tế nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao động, tình trạng thiếu, thất nghiệp còn phổ biến. Mặc dù người lao động cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, khéo léo và có nhiều kinh nghiệm sản xuất phong phú gắn với truyền thống dân tộc, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Song so với yêu cầu hiện nay lưc lượng lao động có trình độ cao vẫn còn ít, đặc biệt là đội ngũ, nhân viên kĩ thuật lành nghề vẫn còn thiếu nhiều, đa số là lao động chưa qua đào tạo, lao động thủ công là chính. Ngoài ra lao động việt có thể lực yếu, tiếu tác phong công nghiệp, kém nhạy bén với cơ chế thị trường. Do đó nhiều nơi có việc nhưng lao động không đáp ứng được yêu cầu nên càng làm gay gắt hơn vấn đề việc làm trong nước. Chính vì vậy vấn đề chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề cần quan tâm hiện nay, là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước, sự sống còn của các doanh nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta vấn đề này chưa được quan tâm đúng mực và còn tồn tại nhiều yếu kém.
Năng suất lao động nước ta so với các nước phát triển trong khu vực.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu và phát triển thành phố Hồ Chí Minh cho biết, cung lao động nước ta rất dồi dào và lớn hơn về cầu lao động. Tuy nhiên phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông, lao động chưa qua đào tạo và chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng miền. Cụ thể là gần 77% người lao động trong độ tuổi chưa qua đào tạo hoặc qua đào tạo nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Về mặt cầu, phần lớn nguồn nhân lực ở nông thôn, nơi mà không đòi hỏi cao về kĩ năng cũng như trình độ lao động. 
Đọc bảng cơ cấu lao động có việc làm phân theo trình độ chuyên môn kĩ thuật năm 1996 và năm 2005 ta sẽ thấy sự biến thiên về trình độ lao động của người dân (đơn vị :%) [9]
 Năm 
Trình độ
1996
2005
Đã qua đào tạo
Trong đó:
Có chứng chỉ nghề sơ cấp
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học và trên đại học
Chưa qua đào tạo
12,3
6,0
3,8
2,3
87,7
25,0
15,5
4,2
5,3
75,0
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy trình độ lao động có trình độ qua đào tạo tăng, chưa qua đào tạo giảm. Nhưng lao động chưa qua đào tạo vẫn chiếm nhiều trong cơ cấu chuyên môn và nó gấp 3 lần lao động chưa qua đào tạo.
Như vậy, có thể thấy rằng chất lượng và nguồn lao động nước ta hiện nay đang còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề, có chất lượng cao của các doanh nghiệp lại liên tục tăng. Điều này dẫn đến nguồn lao động của chúng ta dồi dào, nhu cầu việc làm lớn nhưng các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu lao động. Đặc biệt là vấn nạn thất nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt và nghiêm trọng trên khắp cả nước.
b. Thực trạng về vấn đề nhận thức của học sinh lớp 12 về vấn đề lao động và việc làm hiện nay.
Để tìm hiểu nhận thức của học sinh về vấn đề lao động và việc làm, tôi đã có một số câu hỏi dành cho các em khối 12 như sau: “ Em biết gì về thực trạng nguồn lao động và vấn đề việc làm của nước ta hiện nay?” thì đa phần học sinh : “ nguồn lao động nuớc ta đông; còn về vấn đề việc làm thì em không rõ lắm". Còn đến câu hỏi: “ Em có định hướng nghề nghiệp như thế nào?” thì có tới 10% trả lời “ chưa có định hướng gì”, 15% trả lời “ Có nhưng chưa chắc lắm”, hơn 55% trả lời là “em sẽ thi những trường em thích” và chỉ có gần 20% học sinh có định hướng rõ ràng về công việc của mình trong tương lai. Điều đó cho thấy học sinh lớp 12 chưa có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vấn đề lao động và việc làm, từ đó việc định huớng nghề nghiệp còn chung chung, mơ hồ. Việc chưa có khả năng xác định rõ nghề nghiệp phù hợp với năng lực của mình, phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, chỉ chú trọng đầu tư vào kiến thức bỏ qua việc rèn luyện kĩ năng thực hành đã khiến hàng nghìn cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp khi ra trường. Nhiều người lầm tưởng vào đại học, phải học cao mới có việc làm. Do đó, nhiều học sinh nộp hồ sơ vào những trường đại học kh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_kien_thuc_lien_mon_de_nang_cao_chat_luong_giang.doc