SKKN Sử dụng hình ảnh trực quan và biện phỏp so sánh để dạy tốt văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Hải Lĩnh

SKKN Sử dụng hình ảnh trực quan và biện phỏp so sánh để dạy tốt văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Hải Lĩnh

Ngữ văn là một môn khoa học, đòi hỏi người dạy, người học phải say mê, suy ngẫm, hào hứng khi tiếp cận thì mới có thể hiểu và làm rõ được vấn đề. Dạy Ngữ văn, học Ngữ văn cũng là một nghệ thuật, nó vốn không ưa sự lặp lại nhàm chán, cần đến sự sáng tạo và linh hoạt về phương pháp. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là một định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.

 Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy tình yêu văn học trong học sinh đã giảm sút rất nhiều. Một phần, do Ngữ văn là môn học khó chiếm lĩnh, dù các em thích văn nhưng không phải em nào cũng có khả năng tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng. Trong khi đó, học sinh có năng khiếu học văn không nhiều. Phần khác, do xu hướng phát triển của thời đại khoa học, nhu cầu xã hội, yêu cầu của nghề nghiệp, sự định hướng của gia đình, ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn môn học của các em. Những ngành nghề các em thích, sau này có thu nhập cao, khối dự thi thường là các ban Khoa học tự nhiên. Chính vì vậy, việc xem thường, coi nhẹ, xa lánh môn văn là điều dễ hiểu.

 Song, với vai trò là một môn học quan trọng, có vị trí lớn trong trường học: cung cấp tri thức, rèn luyện nhân cách, cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện mình hơn trong các mối quan hệ xã hội. Là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác: học tốt môn văn sẽ có tác động, hỗ trợ tích cực đến các môn học còn lại. Mặt khác, Ngữ văn là món ăn tinh thần của con người, không chỉ dùng lý trí để “nhận” mà còn phải “cảm” bằng cả trái tim và tâm hồn. Vì thế, người dạy không thể xem học sinh là “chiếc bình” cần đổ đầy kiến thức mà phải thấy

 

doc 21 trang thuychi01 9225
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng hình ảnh trực quan và biện phỏp so sánh để dạy tốt văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Hải Lĩnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
. Lí do chọn đề tài:
Ngữ văn là một môn khoa học, đòi hỏi người dạy, người học phải say mê, suy ngẫm, hào hứng khi tiếp cận thì mới có thể hiểu và làm rõ được vấn đề. Dạy Ngữ văn, học Ngữ văn cũng là một nghệ thuật, nó vốn không ưa sự lặp lại nhàm chán, cần đến sự sáng tạo và linh hoạt về phương pháp. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là một định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
	Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy tình yêu văn học trong học sinh đã giảm sút rất nhiều. Một phần, do Ngữ văn là môn học khó chiếm lĩnh, dù các em thích văn nhưng không phải em nào cũng có khả năng tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng. Trong khi đó, học sinh có năng khiếu học văn không nhiều. Phần khác, do xu hướng phát triển của thời đại khoa học, nhu cầu xã hội, yêu cầu của nghề nghiệp, sự định hướng của gia đình, ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn môn học của các em. Những ngành nghề các em thích, sau này có thu nhập cao, khối dự thi thường là các ban Khoa học tự nhiên. Chính vì vậy, việc xem thường, coi nhẹ, xa lánh môn văn là điều dễ hiểu.
	Song, với vai trò là một môn học quan trọng, có vị trí lớn trong trường học: cung cấp tri thức, rèn luyện nhân cách, cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện mình hơn trong các mối quan hệ xã hội. Là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác: học tốt môn văn sẽ có tác động, hỗ trợ tích cực đến các môn học còn lại. Mặt khác, Ngữ văn là món ăn tinh thần của con người, không chỉ dùng lý trí để “nhận” mà còn phải “cảm” bằng cả trái tim và tâm hồn. Vì thế, người dạy không thể xem học sinh là “chiếc bình” cần đổ đầy kiến thức mà phải thấy được các em là những “ngọn đuốc” cần được thắp sáng. 
Vậy, làm thế nào để đánh thức khát vọng học văn vốn đang dần tắt nguội, để thắp sáng những nội lực văn chương trong học sinh, để các em chủ động đến với văn và yêu văn? Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn qua nhiều năm, tôi thiết nghĩ muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao cần phải mang đến cho bài học sự hấp dẫn, lôi cuốn gây sự thu hút và hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt là đối với các tác phẩm lớn. 
Trong chương trình Ngữ văn 9, văn bản Truyện Kiều là một kiệt tác của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không chỉ lớn về dung lượng kiến thức mà còn ở một thời đại cách xa với các em khiến các em khó có được sự hình dung và tiếp nhận thuận lợi. Mặt khác, khi dạy học về bài khái quát Truyện Kiều, nhìn chung các giáo viên còn đang dạy “chay” theo kiến thức sách giáo khoa, chưa tự mình “biên soạn” một bài dạy “công phu” để giúp học sinh khi mới tiếp cận với Truyện Kiều đã có ấn tượng sâu sắc và yêu thích, hứng thú học bài hơn.
Vì vậy, ngay từ đầu năm học 2015-2016 khi được phân công dạy môn Ngữ văn ở hai lớp 9, tôi đã áp dụng “Sử dụng h×nh ¶nh trùc quan vµ biện pháp so s¸nh ®Ó d¹y tèt v¨n b¶n TruyÖn KiÒu cña NguyÔn Du cho học sinh líp 9 ë tr­êng THCS Hải Lĩnh” nhằm giúp các em không chỉ bằng tri thức mà còn bằng cả trực giác để quan sát, tái hiện và nắm bắt khái quát nội dung và nghệ thuật của Tác phẩm, từ đó, đón nhận các đoạn trích học ở những tiết sau một cách hứng thú và hiệu quả hơn. Điều này đã thực sự bước đầu mang lại thành công cho chất lượng môn Ngữ văn ở lớp tôi áp dụng so với lớp không thử nghiệm. Do đó, tôi xin mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm này trong đề tài sáng kiến của mình và mong được sự góp ý của các đồng chí, đồng nghiệp để tôi có thêm kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của mình được tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
	Sáng kiến kinh nghiệm góp phần tạo hứng thú học tập cho học sinh qua kĩ năng quan sát hình ảnh trực quan để tóm tắt Truyện Kiều nhanh và nhớ nhất. Đồng thời, liên hệ, so sánh các đơn vị kiến thức liên quan đến văn bản để học sinh hiểu biết về vai trò của tác giả và giá trị nghệ thuật của tác phẩm sâu sắc hơn. 
Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức trong bài khái quát chung về Truyện Kiều và có niềm yêu thích, tích cực đón học các đoạn trích của tác phẩm ở những tiết bài sau một cách tốt nhất.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cụ thể là nghiên cứu bài học tìm hiểu chung về Truyện Kiều gồm có: 
+ Tóm tắt tác phẩm
+ Giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì phương pháp luận của khoa học nhân bản cũng có những đổi mới. Việc đổi mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Văn học trung đại là một bộ phận của văn học viết. Nó giúp học sinh tìm về thế giới của người xưa. Qua tác phẩm văn học trung đại giúp các em bồi dưỡng nhân cách, biết yêu quý các giá trị phi vật thể, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu gia đình và tự hào dân tộc, có lý tưởng XHCN, lòng khoan dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp không cam chịu nghèo nàn. Song, để học sinh nắm được các giá trị nhân văn và nghệ thuật của tác phẩm văn học trung đại đã là một sự khó khăn, giúp các em kết hợp tìm hiểu, nắm bắt kiến thức và rèn luyện các kĩ năng, năng lực lại càng khó khăn hơn. Đặc biệt với Truyện Kiều – một kiệt tác của thơ ca cổ thì điều đó lại càng khó khăn hơn.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là ngôi sao sáng chói nhất trong nền văn học cổ điển Việt Nam. Tác phẩm được xếp vào một trong những kiệt tác bất hủ của nền văn học thế giới. Vị trí đó đã nói lên tất cả giá trị của truyện Kiều.
Trong chương trình ngữ văn THCS, tác phẩm này đã có một vị trí quan trọng. Số tiết dạy – học về Truyện Kiều trong sách giáo khoa (và trong phân phối chương trình) cũng đã nói lên được điều đó. Trong số 2 tiết giảng dạy về tác gia Nguyễn Du thì đã có khoảng 1tiết dành riêng cho Truyện Kiều. Ngoài ra còn có 3 tiết học 3 đoạn trích trong tác phẩm. So với những tác phẩm khác, việc giảng dạy Truyện Kiều như vậy là tương đối nhiều. Trong giờ dạy – học về tác phẩm Truyện Kiều, giáo viên cần giúp học sainh thấy được: 
- Giá trị hiện thực to lớn cũng như tinh thần nhân đạo cao được thể hiện trong tác phẩm.
- Tài năng vào bậc thiên tài của Nguyễn Du trong việc xây dựng tính cách, nội tâm nhân vật, trong việc vận dụng kết hợp giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân.
- Sự sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn Du khi dực vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết nên tác phẩm Truyện Kiều. 
Để học sinh thấy được những điều này, sách giáo khoa đã trình bày khá rõ hai trong ba vấn đề trên. Nhưng còn vấn đề thứ ba: Sự sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn Du khi dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì sách giáo khoa chưa đưa ra một dẫn chứng cụ thể nào để minh hoạ. Thiết nghĩ việc cung cấp thêm một vài tri thức của phần này để từ đó học sinh thấy được tài năng của Nguyễn Du cũng như những giá trị to lớn của Truyện Kiều cũng hết sức quan trọng. Chính vì lẽ đó tôi đã thực hiện đề tài trên. 
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
	Hiện nay, nền văn hóa của nước ta cũng nh­ các nước trên thế giới rất phát triển. Mạng lưới truyền thông cập nhật. Học sinh được tiếp thu, tiếp xúc với nhiều phương tiện nghe, nhìn: đài, báo, ti vi, mạng intenet, truyện tranh, phim hoạt hình, phim trực tuyến online. Các em không mÊy hứng thú khi ngồi nghe một giờ Ngữ văn. Đặc biệt là văn học trung đại, lời tâm sự của người xưa gửi gắm vào các tác phẩm tưởng nh­ xa vời, là không có thực.
Đứng trước tình hình hiện nay, là một giáo viên, nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp học sinh có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật, với tác giả, từ đó cảm thông và yêu quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có ý thức và biết cách ứng xử trong gia ®×nh, trong trường học và ngoài xã hội một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối ph¶n ánh trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh nắm được các hình thức nghệ thuật trong văn học trung đại, đặc biệt là các hình thức nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong chương trình sách giáo khoa ngữ văn 9 hiện nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du có một vị trí không nhỏ. Có một bài giành riêng cho việc giới thiệu tác giả, tóm tắt tác phẩm, nêu giá trị tác phẩm và 5 đoạn trích. Qua thực tế giảng dạy và tham khảo các ý kiến về “Truyện Kiều”, tôi thấy: khi tìm hiểu “Truyện Kiều” có giáo viên thiên về lý thuyết, nặng về thuyết trình mang tính chất giới thiệu tác phẩm và chỉ cho học sinh đọc hoặc kể tóm tắt tác phẩm theo sách giáo khoa; có giáo viên thiên về chú trọng các giá trị nội dung, còn việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật thì vẫn chưa thực sự cho đây là một vấn đề quan trọng. Do đó, học sinh cảm thấy choáng ngợp trước một tác phẩm lớn, từ đó lo sợ và ngại học các đoạn trích của tác phẩm. Vì những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài này. Trước hết là để tìm hiểu sâu sắc hơn về thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”; Hơn nữa, sáng kiến này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về kinh nghiệm giảng dạy “Truyện Kiều” giúp học sinh tìm hiểu, phân tích “Truyện Kiều” với cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.
Sau khi häc bµi t×m hiÓu chung “TruyÖn KiÒu cña NguyÔn Du”, qua bµi kh¶o s¸t, tôi đã thu được kết quả thực trạng như sau:
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - Kém
TB trở lên
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
29
0
0
5
17.2
10
34.5
14
48.3
15
51.7
9B
30
0
0
3
10.0
12
40.0
15
50.0
15
50.0
Đứng trước thực trạng đó, là giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở, tiến hành xác định giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 
2.3.1. Giải pháp:
- Sö dông h×nh ¶nh trùc quan khi d¹y t¸c phÈm TruyÖn KiÒu.
- So s¸nh TruyÖn KiÒu của Nguyễn Du víi b¶n gèc “Kim V©n KiÒu truyÖn” cña Thanh T©m Tµi Nh©n.
2.3.2. Tổ chức thực hiện.
2.3.2.1. Sö dông h×nh ¶nh trùc quan:
Để học sinh có thể nắm cốt truyện một cách sâu sắc, tôi sưu tầm và vận dụng vào bài học những tranh ảnh minh họa cho các tình tiết, tình huống xoay quanh nhân vật Thúy Kiều nhằm giúp các em tóm tắt tác phẩm được tốt hơn.
Tôi tiến hành tìm hiểu các thủ pháp nghệ thuật được Nguyễn Du sử dụng qua việc phân tích tài năng miêu tả ngoại hình để khắc họa tính cách và số phận nhân vật; Khảo sát phân tích các bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh qua các khía cạnh: cảnh vật, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, dáng điệu, cử chỉ, nội tâm ở những nhân vật tiêu biểu. Dïng tranh ®Ó m« pháng, minh häa kiÕn thøc gióp häc sinh dÔ nhí vµ h×nh dung ra néi dung bµi häc mét c¸ch dÔ dµng h¬n. Tõ ®ã cã nh÷ng rung ®éng vµ c¶m nhËn vÒ c¸c ®o¹n trÝch ®ã s©u s¾c h¬n.
* Trước hết tôi dùng các hình ảnh về chân dung tác giả, tác phẩm để giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
* Trong nội dung tóm tắt truyện Kiều, tôi dùng tranh minh họa cho các chi tiết quan trọng thuộc cả ba phần của truyện. Sau khi giới thiệu và cho học sinh quan sát, tôi yêu cầu các em kể lại truyện theo tranh ảnh minh họa. 
Phần I: Gặp gỡ và đính ước:
 Phần II: Gia biến và lưu lạc.
Phần III. Đoàn tụ:
2.3.2.2. Biện pháp so sánh.
 Để làm nổi bật sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, khi dạy học đến nội dung “Giá trị của Truyện Kiều” tôi đã tiến hành biện pháp so sánh bằng phương pháp tích hợp: bút pháp miêu tả, khắc họa các nhân vật chính diện và phản diện; bút pháp miêu tả thiên nhiên của Truyện Kiều so sánh với Kim Vân Kiều truyện - tác phẩm văn học Trung Quốc mà Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện đó để sáng tác Truyện Kiều như sau:
* Nguồn gốc Truyện Kiều. 
- Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được bản gốc “Truyện Kiều” viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Du. Tuy nhiên, họ đã tìm ra được rất nhiều bản dịch ở các thời điểm khác nhau của “Truyện Kiều”. Tất cả các nhà nghiên cứu đều cho rằng Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân - một tác giả Trung Quốc sống ở thÕ kû XV. 
- Từ một tác phẩm văn xuôi chữ Hán, viết theo kiểu tiểu thuyết chương hồi, từ một câu chuyện tình bình thường, nhưng với tài năng nghệ thuật, qua lăng kính của người nghệ sĩ tài hoa, Nguyễn Du đã biến tác phẩm ấy trở thành một “Thiên cổ tình thư”. Ban đầu ông đặt tên cho nó là “Đoạn trường tân thanh”, sau này người ta quen gọi là “Truyện Kiều”. 
- Theo SGK ngữ văn 9: Truyện Kiều gồm 3254 câu. Song, có nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu về Truyện Kiều cho biết số lượng câu trong Truyện Kiều có bản là 3260 câu, có bản là 3259 câu (vì chưa tìm được bản gốc nên chưa xác định được cụ thể, chính xác). 
* Giá trị của Truyện Kiều. 
Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao cả về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Song, tôi tập trung vào so sánh nghệ thuật của Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện để giúp học sinh thấy được tài năng bậc thầy của Đại thi hào Nguyễn Du:
- Thứ nhất, về thể loại:
+ Một bên là văn xuôi kể chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện, một bên là truyện thơ của Truyện Kiều. Hay nói rõ hơn đó chính là sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ. 
+ Nói đến văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến thơ như Truyện Kiều thì ngoài ngữ nghĩa từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. Trong lúc trữ tình, nhà thơ đã gửi gắm vào tác phẩm cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên các đoạn thơ đều chân thực tha thiết, làm cảm động lòng người.
- Thứ hai, Nguyễn Du đã sáng tạo và làm nên cái mới cho tác phẩm:
+ Truyện Nôm thường đẩy nhân vật xuống vị trí thứ hai sau cốt truyện, nhưng với truyện Kiều thì không. Vì vậy, đọc truyện Kiều người ta nhớ đến nhân vật hơn. Đó là nhờ cách xây dựng nhân vật mà do tác giả có vốn sống dồi dào tạo nên chất liệu kết hợp với vốn kiến thức học rộng: dùng lối điểm nhãn để tinh lọc cổ họa, thi cổ. Do đó, nhân vật chính diện hay phản diện đều chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ đã trở thành một nguyên khối, một cá tính, một con người thực:
Tú Bà, Mã Giám Sinh: Buôn thịt, bán người vì tiền mà mất lương tâm, nhân cách.
Hoạn Thư vì ghen tuông mà đày đọa Thúy Kiều.
Hồ Tôn Hiến vì danh vị cao sang mà nhân tâm hèn hạ.
Thúc Sinh lép vế nhưng vẫn là kẻ chung tình.
+ Giọng điệu khách quan nhưng lại ảnh hưởng đến người đọc, người nghe nên tạo được cho tác phẩm góc độ thẩm mĩ riêng, một quan hệ mới. Đây cũng chính là những yếu tố thi pháp văn xuôi sau này.
- Nguyễn Du đã có sự biến đổi một số tình tiết: 
+ Nguyễn Du đã bỏ đi những chi tiết dài dòng, những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhiều khi thô bỉ, có hại với mĩ cảm người đọc và không nhằm phục vụ chủ đề tác phẩm. Đồng thời nhà thơ thêm vào rất nhiều đoạn tả cảnh, tả tình nhắm nêu rõ tính cách và tâm trạng của nhân vật. Dường như có hầu hết các cảnh thiên nhiên mĩ lệ trong truyện Kiều : 
 	-	Cỏ non xanh rợn chân trời,
 	Cành lê trắngđiểm một vài bông hoa.
-	Dưới trăng quyên đã gọi hè,
 	 Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
-	Long lanh đáy nước in trời,
 	Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng. 
Hay là những câu thơ ẩn chứa nỗi niềm của tác giả trước thực tại cuộc sống lúc bấy giờ: 
Đã đày vào kiếp phong trần 
 Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. 
Tất cả đều không có trong Kim Vân Kiều truyện. Từ những tình tiết này, Nguyễn Du đã khắc hoạ được thân phận bất hạnh của con người trong xã hội bất công, đã làm nổi bật được nội tâm nhân vật cũng như gửi gắm những dòng tâm tư của mình. Điều này tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không thể nào có được. 
 Những sáng tạo của Nguyễn du ở đây không chỉ là chuyện thêm hay bớt. Tác giả đã có những sáng tạo, biến hoá thật tài tình. 
+ Chẳng hạn như cảnh Vương Ông bị đánh: Thanh Tâm Tài Nhân đã miêu tả: “Vương ông cũng bị treo ngược lên trời, mặt úp xuống đất, trên lưng bị chặn một tảng đá to, sức đè ép nặng ấy làm cho 360 ngố xương kêu lên răng rắc, mồ hôi tự trong 8400 lỗ chân lông chảy ra như tắm!” Thật oái oăm, nghiệt ngã và cũng thật phi lý! 
Ở chi tiết này, Nguyễn Du đã viết như sau: 
Người nách thước kẻ tay đao 
 Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi 
Già giang một lão một trai 
 Một dây vô loại buộc hai thâm tình 
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh 
 Rụng rời lộc liễu, tan tành gốc mai 
Đồ tế nhuyễn của riêng tây 
 Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham 
Rường cao rút ngược dây oan 
 Dẫu là đá cũng nát gan, lọ ngừời 
Mặt trông đau đớn rụng rời 
 Oan này còn một kêu trời nhưng xa 
Đoạn thơ vừa thể hiện tình cảnh bất hạnh của gia đình Kiều, vừa thể hiện được nỗi đau của tác giả. Điều này ta không thấy được trong đoạn văn trên. 
+ Và đây là một chi tiết sáng tạo khác nữa của Nguyễn Du: Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã kể cảnh Thuý Kiều báo oán như sau Hoạn Thư: “Túm tóc Hoạn Thư, lôi ra lột hết áo quần, chỉ để cho một cái khố, tóc bị buộc lên sàn nhà, hai tên cung nữ mỗi tên túm lấy một tay để lôi giăng ra, hai tên thì cầm roi ngựa đứng trước và sau, một tên từ trên đánh xuống, một tên từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn giãy giụa kêu trời, toàn thân chẳng còn một miếng da nào lành lặn”. 
Nàng Kiều của Nguyễn Du thì không dã man như vậy. Kiều hạch tội Hoạn Thư, sau khi nghe ả Hoạn trả lời khôn khéo, phải chăng, nàng đã “Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Nàng Kiều của Nguyễn Du cũng biết uất hận như mọi con ngưòi đau khổ bị chà đạp, nhưng nàng cũng biết khoan dung, xét thấu những điều khuất khúc nơi kẻ tội đồ. Lòng khoan dung của Kiều chính là phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam. 
- Ngoài ra, Nguyễn Du còn có những những sự thay đổi khác: 
+ Có chi tiết ông đã để nàng Kiều phải hứng chịu những trận đòn ác liệt ở trước cửa tri phủ Lâm tri, khi quan bảo nàng phải chọn lấy một trong hai điều: tra tấn hay là trở lại lầu xanh. Kiều đã chịu sự tra tấn để xác nhận thêm ý muốn sống cuộc đời trong sạch, và cái trận đòn “Ba câu chụm lại một nhành mẫu đơn” đã khiến “Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày” không hề xảy đến với Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. 
Như vậy, Nguyễn Du đã làm cho bọn quan lại càng xấu xa hơn và nàng Thuý Kiều càng tốt đẹp hơn. 
+ Thuý Kiều của Nguyễn Du càng đẹp đẽ hơn khi nàng đã dám hiên ngang bênh vực Từ Hải trước mặt Hồ Tôn Hiến. 
Trong khi Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cam chịu phận mình thì Kiều của Nguyễn du lại mạnh dạn đề cao khí thế anh hùng, đề cao sự nghịệp của Từ đối với nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du cũng đã lưu ý mọi chi tiết để đề cao vai trò nhân vật mình. 
+ Thanh Tâm Tài Nhân chỉ để cho một viên tướng được phái đến Kiều. Viên tướng này đã viện cớ mặc áo giáp mà không quy lạy trước nàng thì ở Nguyễn Du, số tướng lãnh ấy đã được nâng lên mười vị, sẵn sang “Đặt gươm, cởi giáp trước sân khấu đầu”. Và để cho xứng đáng với nàng, những người liên quan cũng được nâng cao. Từ Hải trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân phải mất ba năm mới gây dựng sự nghiệp của họ Từ còn của Nguyễn Du thì chỉ cần mất một năm là đã thu về được mười vạn tinh binh. Từ Hải Trung Hoa được Kiều coi như một tên tù trưởng, nhưng với Nguyễn Du, Từ Hải la một đấng anh hùng “Đội trời đạp đất ở đời/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đã thể hiện rất rõ ở tình tiết này. 
T

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_hinh_anh_truc_quan_va_bien_phop_so_sanh_de_day.doc