SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- Học môn Ngữ văn THCS

SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- Học môn Ngữ văn THCS

Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm thức dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và học sinh, điều này đã tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức thì vô cùng; môn học thì quá tải mà sức học của học sinh có hạn. Trong giờ giảng Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ, lời bình của người thầy mà còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy.

Phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công trong giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản đồ tư duy) là một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương pháp dạy học bằng BĐTD không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến thức, đơn giản hóa kiến thức của môn học mà nó còn giúp học sinh có khả năng nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn.

 

doc 16 trang thuychi01 8682
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- Học môn Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY- HỌC MÔN NGỮ VĂN THCS 
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài 
 	Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm thức dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và học sinh, điều này đã tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức thì vô cùng; môn học thì quá tải mà sức học của học sinh có hạn. Trong giờ giảng Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ, lời bình của người thầy mà còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy. 
Phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công trong giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản đồ tư duy) là một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương pháp dạy học bằng BĐTD không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến thức, đơn giản hóa kiến thức của môn học mà nó còn giúp học sinh có khả năng nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Ngữ văn là môn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Văn học dùng chất liệu
hiện thực kết hợp với nghệ thuật ngôn từ để phản ánh hiện thực, thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả. Vì vậy dạy học văn là khai thác nghệ thuật ngôn từ để làm rõ nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả. Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) trong môn ngữ văn, không có sự hạ thấp vai trò của giáo viên (GV) mà ngược lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học. Đây là phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển quá trình thuyết giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, giữa học sinh (HS) và HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm hiểu bài học của mình. 
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, giáo viên có thể vậndụng nhiều loại hình phương pháp khác nhau. Trong đó, xây dựng và sử dụng
bản đồ tư duy là một trong những phương pháp hữu hiệu mang lại thành công
cho thày và trò qua mỗi bài học
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy- học Ngữ văn THCS”
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục. Hiện nay vấn đề đổi mới PPDH nói chung cũng như đổi mới PPDH Ngữ văn nói riêng đã được pháp chế hóa trong điều 28, Luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh (HS)”. Việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan trọng hơn là dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động (PGS.TS Vũ Hồng Tiến).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học có thể áp dụng cho
nhiều bộ môn trong nhà trường phổ thông, trong thuyết trình đề tài, đề án, công
trình nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu khoa học,
các nhà sáng chế...Đối với môn Ngữ Văn THCS( gồm 3 phân môn: Văn, Tiếng
Việt, Tập làm văn) thì bản đồ tư duy giúp người dạy, người học xử lý tốt các văn
bản tự sự, nghị luận, các bài Tiếng Việt, tổng kết chương... Bản đồ tư duy giúp
cho các bài văn trở lên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc, các bài học trong
phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mang tính khái quát, hệ thống, khoa học,
logic...
Trong quá trình dạy Ngữ văn, nếu giáo viên (GV) xây dựng và sử dụng sơ
đồ tư duy một cách hợp lý và sáng tạo các bài dạy học; tổ chức cho HS tham gia
các hoạt động học tập tích cực và hứng thú hơn để các em tự chiếm lĩnh kiến thức
cho bản thân; giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ
bản từ đó vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập và các tình huống trong
cuộc sống... Mặt khác sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy còn giúp học sinh rèn
luyện, phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo
của học sinh không chỉ trong học tập môn Ngữ văn mà còn trong các môn học
khác và các vấn đề khác trong cuộc sống.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
 * BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
  * BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực: 
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. 
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. 
Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. 
Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện chí, hứng thú trong việc học môn Ngữ văn, chưa nắm được vai trò quan trọng của môn Ngữ văn đối với đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Vì thế đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn là rất cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
 - Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại. 
 - Kỹ năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa ... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Từ nhận thức ấy, trong quá trình gi ảng dạy , tôi đã cố gắng tìm hiểu làm thế nào để khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất. Nếu giải quyết được vấn đề này thì các em sẽ vững vàng chủ động hơn khi bước vào những kì thi quan trọng.
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số bản đồ tư duy giúp học sinh chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng.
BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án, có thói quen tính toán tỉ mỉ trước khi bắt tay vào công việc. Nó cho người học một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó đang một dự án kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc.
 	Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công. Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều việc một lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu.
Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
 Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. 
 Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
* Đối với hoạt động giáo dục
 Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.
 Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách rất rõ ràng. Đặc biệt là khả năng khái quát và hệ thống hóa kiến thức.
Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ về những gì được học.
BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài.
Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
* Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung, kiến thức của bài học.
 Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: 
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính (Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ...) từ đó rút ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái quát thành bài học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng
Sơ đồ minh hoạ
 Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Môn Ngữ văn lớp 6), đầu tiết học, giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học. Giáo viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến thức cần tìm về các phép tu từ đã học ở tiết học trước.
Ở tiết học So sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh.
Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về So sánh, Giáo viên lần lượt hoàn thiện BĐTD trên bảng thông qua ngữ liệu mẫu SGK. Việc hoàn thiện BĐTD phải có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên đưa ra các tình huống bằng hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi mở, khái quát 
Cùng với giáo viên, học sinh cũng lần lượt hoàn thành BĐTD vào vở ghi. Để kiến thức bài học được chi tiết, dễ hiểu, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp tục trẻ nhỏ thêm các nhánh trên BĐTD.
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng  BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có về từ loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại kiến thức đã học vì vậy BĐTD sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về từ ngữ tiếng Việt. Việc sử dụng BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân môn tiếng Việt nói riêng không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài này, giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung thêm cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức.
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
 Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho học sinh bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:
a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác...
b. Tác phẩm: 
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm gồm cả thơ và truyện)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam; tại sao Truyện Kiều được viết bằng những câu thơ lục bát mà vẫn được coi là một tác phầm truyện
+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước; gia biến và lưu lạc. đoàn tụ)
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá trị nghệ thuật của truyện.
Sơ đồ minh hoạ
 Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham khảo từ đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap không dễ, tuy nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt, xương cá, mô hìnhViệc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối với phân môn Tập làm văn BĐTD hay sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược của một đề bài cụ thể.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi đã vận dụng có kết quả trong một phạm vi hẹp. Có thể những điều này không là những điều mới mẻ với các đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm nhưng với tôi đó là tất cả sự tâm đắc sau những năm công tác giảng dạy .Và những điều tôi thực hiện trên đây cũng chỉ là một việc nhỏ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn. Rất mong được sự đóng góp chân thành của các đồng nghiệp
3.2. Kiến nghị
Đối với các cấp quản lí giáo dục 
Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng học kỳ, từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên về chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên có chất lượng cao, phương pháp dạy học tốt.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đông Sơn ngày 20 tháng 05 năm 2018	 Tôi xin cam doan đây là SKKN của mình, 
 không sao chép nội dung củ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_mon_ngu_van_thcs.doc