SKKN Rèn luyện tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi văn

SKKN Rèn luyện tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi văn

 TS. Hồ Thiệu Hùng trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng: “ Đổi mới giáo dục thì phải đổi mới hoạt động dạy và học, muốn đổi mới hoạt động dạy và học mà không khuyến khích tư duy phản biện, không rèn luyện năng lực phản biện khoa học cho học sinh thì mất hẳn một nội dung cơ bản của đổi mới”. Có thể nói xu thế tất yếu của GD là đào tạo những con người có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Điều đó có nghĩa phản biện là năng lực quan trọng của mỗi con người, phát huy khả năng phản biện của học sinh là một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ trong giáo dục. Đây là một trong những mục tiêu giáo dục quan trọng của những nền giáo dục tiên tiến, dân chủ trên thế giới và cũng là một trong những đích đến của giáo dục nước ta hiện nay. Trong quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do bộ trưởng GD-ĐT ban hành kèm theo thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có nói: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện ”. Như vậy, với mỗi học sinh “biết phản biện” chính là một trong những năng lực quan trọng hàng đầu.

doc 21 trang thuychi01 27134
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN LUYỆN TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC 
VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH GIỎI VĂN 
Người thực hiện: Trương Thị Giang
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU 	....2
1.Lí do chọn đề tài2
2. Mục đích nghiên cứu...3
3. Đối tượng nghiên cứu..4
4. Phương pháp nghiên cứu4
PHẦN II: NỘI DUNG  .5
1. Cơ sở lí luận..5
1.1. Nghị luận xã hội..5
1.2. Phản biện và tư duy phản biên.....6
1.3. Tư duy phản biện trong văn nghị luận xã hội..6
2.Thực trạng rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh 7
2.1. Thực trạng dạy.7
2.2. Thực trạng học.7
3. Một số biện pháp rèn luyện tư duy phản biện trong dạy - học văn nghị 
luận xã hội cho học sinh giỏi Văn....8
3.1. Tạo không khí dân chủ cho giờ học...8
3.2. Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học kích thích tư duy phản biện.9
3.3. Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, ra đề theo hướng phát huy năng lực 
phản biện của học sinh....14
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. ...16
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 	.19 
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH XẾP LOẠI ..20
	 PHẦN I: MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài
 1.1. Từ yêu cầu của nền giáo dục hiện đại
 TS. Hồ Thiệu Hùng trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng: “ Đổi mới giáo dục thì phải đổi mới hoạt động dạy và học, muốn đổi mới hoạt động dạy và học mà không khuyến khích tư duy phản biện, không rèn luyện năng lực phản biện khoa học cho học sinh thì mất hẳn một nội dung cơ bản của đổi mới”. Có thể nói xu thế tất yếu của GD là đào tạo những con người có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Điều đó có nghĩa phản biện là năng lực quan trọng của mỗi con người, phát huy khả năng phản biện của học sinh là một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ trong giáo dục. Đây là một trong những mục tiêu giáo dục quan trọng của những nền giáo dục tiên tiến, dân chủ trên thế giới và cũng là một trong những đích đến của giáo dục nước ta hiện nay. Trong quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do bộ trưởng  GD-ĐT ban hành kèm theo thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có nói: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện ”. Như vậy, với mỗi học sinh “biết phản biện” chính là một trong những năng lực quan trọng hàng đầu. 
2.2. Đến vai trò của tư duy phản biện trong đời sống và trong bài văn nghị luận xã hội.
Tư duy phản biện có vai trò to lớn trong đời sống xã hội: giúp con người vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen có sẵn; hướng đến cái mới, thoát ra khỏi những rào cản của định kiến; tìm hiểu, phát hiện những ý tưởng, giá trị mới của vấn đề; tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ trong suy nghĩ và hành động; có ý thức nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, đưa lại kết quả mới, kích thích khả năng sáng tạo.Tư duy phản biện giúp con người suy nghĩ một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau; khắc phục tình trạng nhìn nhận vấn đề một chiều, phiến diện, chủ quan, duy ý chí; suy nghĩ để giải quyết vấn đề theo hướng xem xét kỹ ở mọi góc độ, khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc; ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác khi tranh luận; sẵn sàng chấp nhận sự thật khách quan, lắng nghe ý kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề trước khi đưa ra kết luận; dám thừa nhận cái chưa đúng, sẵn sàng thừa nhận cái đúng của người khác và vì vậy, dễ dàng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Do đặc trưng của văn nghị luận là trình bày những quan điểm, nhận xét đánh giá của người viết về một vấn đề nhằm thuyết phục người nghe, người đọc hiểu và tin vào những ý kiến đó nên người viết trước hết phải có một quan điểm, thái độ rõ ràng, đúng đắn và tự tin thể hiện nó. Tư duy phản biện giúp cho học sinh trước hết thể hiện được năng lực tư duy độc lập, cá tính độc đáo với những góc nhìn riêng từ đó tạo nên sức hấp dẫn trong bài viết. Có năng lực phản biện tốt, bài văn nghị luận sẽ tỏa ra sức hút từ trí tuệ, tâm hồn và cá tính của chính người viết. Một bài văn nghị luận xã hội có tư duy phản biện đòi hỏi độ sắc của lập luận, độ sâu của luận điểm và độ rộng của luận chứng. 
Việc đổi mới kiểm tra đánh giá năng lực học sinh giỏi văn những năm gần đây cũng đang hướng tới phát triển tư duy phản biện của học sinh. 
Trong kì thi học sinh giỏi quốc gia năm 2011, câu hỏi nghị luận xã hội đã yêu cầu học sinh viết bài văn bình luận ý kiến của Fu- ku- za-waYu- ki- chi: “ Mọi người sinh ra đều bình đẳng, nếu có khác biệt là do học vấn”. Hướng dẫn chấm yêu cầu học sinh phải nhận thấy vấn đề được đặt ra trong đề bài mang tính đối thoại, vì vậy cần có cái nhìn đa chiều, mang tính phản biện, cụ thể hơn hướng dẫn chấm đã yêu cầu bài làm của học sinh cần trình bày được ý : Không nên tuyệt đối hóa vai trò học vấn trong việc tạo lập vị thế xã hội của mỗi con người. 
Còn ở đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2015, đề thi yêu cầu học sinh viết bài văn trình bày suy nghĩ về ý kiến: Nếu không sống bằng cái đầu của mình thì có thể bạn phải sống bằng cái đầu của người khác. Với vấn đề này, ngoài việc thể hiện sự đồng tình với ý kiến học sinh cần huy động tư duy phản biện để thấy rằng sống bằng cái đầu của mình không đồng nghĩ với lối sống khép kín, vị kỉ, tự cao tự đại, cũng như sống bằng cái đầu của người khác hoàn toàn khác với thái độ học hỏi, tiếp thu tinh hoa của người khác để làm giùa cho mình.
Như vậy qua khảo sát chúng tôi thấy, đề thi học sinh giỏi văn ở câu nghị luận xã hội luôn yêu cầu học sinh phải có tư duy phản biện để bàn luận giải quyết vấn đề một cách thấu đáo và sắc sảo nhất. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá bài làm của học sinh cũng như khẳng định năng lực của một học sinh giỏi văn. Rèn luyện tư duy phản biện, học sinh sẽ có khả năng tìm hiểu vấn đề từ nhiều góc độ  khác nhau. Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt xuôi chiều trong bài viết. Từ đó học sinh mới có thể giải quyết vấn đề một cách thấu đáo và thuyết phục, sắc sảo và sáng tạo. Tư duy phản biện cũng sẽ giúp học sinh biết trình bày lập luận một cách thuyết phục và rõ ràng, logic và chặt chẽ.
Vì những lí do trên, chúng tôi cho rằng việc hình thành và rèn luyện cho học sinh tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi văn là hết sức thiết thực và quan trọng .
2. Mục đích của đề tài
 Đây không phải là vấn đề bây giờ mới được bàn đến. Song hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng dụng  cụ thể cho bài văn nghị luận xã hội, sáng kiến kinh nghiệm sẽ giúp giáo viên và học sinh nhận thức được vai trò quan trọng của tư duy phản biện, biết bộc lộ tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội, từ đó phát huy được năng lực phản biện của học sinh nhằm đáp ứng những đòi hỏi thiết thực của giáo dục hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu là đề văn và học sinh giỏi văn
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tôi đã nghiên cứu những tài liệu giáo dục học, tâm lí học, triết học, lí luận văn học, tập làm văn, báo chí... để tổng hợp từ lí thuyết đến các ví dụ minh họa trong bài.
	Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và kiểm tra kết quả trực tiếp ở lớp 10,11,12 chuyên Văn của trường. Từ đó chúng tôi đi đến kết luận và đề ra những giải pháp được đề cập trong sáng kiến kinh nghiệm.
	PHẦN II: NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận
1.1. Nghị luận xã hội
Đến nay, khái niệm văn nghị luận xã hội đã trở nên rất quen thuộc với chúng ta. Dưới đây là một số nhận định có uy tín về văn nghị luận xã hội:
Theo Bảo Quyến: Văn nghị luận là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bao gồm những vấn đề thân thuộc mọi quan hệ, hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đồi sống, xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số... [10]
Theo giáo sư Đỗ Ngọc Thống: Văn nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mỗi quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội. [4,5]
Theo nhà giáo Hoàng Dân: Nghị luận xã hội là một kiểu bài dùng lí lẽ và thực tế để giải quyết một vấn đề đặt ra trong xã hội, từ những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày ở cộng đồng lớn nhỏ đến những vấn đề chính trị rộng lớn, từ những vấn đề luân lí đạo đức cá nhân đến những vấn đề có tầm quan trọng về triết lí nhân sinh. Đó là những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến mỗi cá nhân, nó khiến mọi người phải suy nghĩ và có trách nhiệm tham gia giải quyết bằng một phương thức nào đó (nói, viết, hành động) để góp phần duy trì sự tồn tại của cộng đồng. [5,5]
Tựu trung lại, văn nghị luận xã hội là loại văn bản trong đó người viết, người nói sử dụng lí luận với các luận điểm, luận chứng... để trình bày những quan điểm, nhận xét đánh giá của mình về một vấn đề xã hội nhằm thuyết phục người nghe, người đọc hiểu và tin vào những ý kiến đó. 
	Hiện nay, tiêu chí phân loại dạng bài nghị luận xã hội dựa vào nội dung đang được sử dụng nhiều nhất. Theo tiêu chí này, có thể chia nghị luận xã hội thành 3 dạng chính:Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí;Nghị luận về một hiện tượng đời sống;
Nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra từ một tác phẩm văn học
Ngoài ra, còn có dạng đề nghị luận về hai mặt đối lập, dạng đề mở Dù thuộc dạng nào, bài văn nghị luận xã hội cũng cần người viết có tư duy phản biện để tăng chất văn và chiều sâu cho bài viết. 
1.2 Phản biện và tư duy phản biện
Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện bác của mình để chỉ ra những điểm đúng/sai, hợp lí/bất hợp lí, khả thi/ bất khả thi....của đối tượng vấn đề được đưa ra. Mục đích của phản biện nói chung là mang lại nhận thức đúng đắn, sâu sắc về đối tượng và từ đó có giải pháp phù hợp, hiệu quả tác động lên đối tượng
 Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác cho vấn đề đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.
1.3. Tư duy phản biện trong văn nghị luận xã hội
Đối với văn nghị luận xã hội, tư duy phản biện vừa là cách thức tư duy, vừa là cách sàng lọc, tự vệ về tư tưởng của người cầm bút trước các vấn đề xã hội. Sở dĩ nói như vậy là bởi, tư duy phản biện đòi hỏi người viết phải trải qua quá trình phân tích, chứng minh, kiểm chứng, tổng hợp... một cách khoa học, logic từ đó đi đến kết luận, phán đoán. Kết quả của quá trình tư duy đó có thể đi ngược lại với quan điểm của số đông, thậm chí đi ngược lại với những chuẩn mực của một vài thời đại, giai đoạn nhất định về các vấn đề xã hội. Nếu người viết đủ bản lĩnh, tự tin và kiến thức để bảo vệ quan niệm, niềm tin của mình thì đã tạo ra cả một sự đổi thay về tư duy, nhận thức cộng đồng. Nếu người viết không thể thuyết phục được người đọc, người nghe thì cũng nhận ra điểm phản biện chưa thỏa đáng của mình. Từ đó, tư duy phản biện giúp ta vượt qua niềm tin cũ (khi nó lạc hậu, lỗi thời) và xác lập niềm tin mới cho đúng đắn, hoàn thiện nhận thức của bản thân.
Trong văn nghị luận xã hội, vấn đề đặt ra có thể không mới, nhưng đặt dưới các góc nhìn khác nhau, nhất là trong một thời đại bùng nổ thông tin, khi học sinh được tiếp cận với nhiều nguồn tin, nhận thức sớm phát triển, thì những bài viết có tính phản biện vẫn có thể đem đến một kiến giải mới. Đó là lí do vì sao, nhiều khi bài làm của các em còn sáng tạo hơn đáp án. Chất văn của bài nghị luận xã hội được tạo nên từ nhiều yếu tố mà một trong những yếu tố đó chính là chất trí tuệ và tâm hồn của người viết. Đây cũng chính là một yếu tố mà học sinh giỏi văn cần phải đáp ứng được để tạo nên chất riêng.
2. Thực trạng rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh 
2.1. Thực trạng dạy
	Bên cạnh những thuận lợi, giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình rèn luyện tư duy phản biện cho cho học sinh giỏi bởi những vấn đề sau:
	Lối học thụ động truyền thống đã ăn sâu vào cách dạy học ở các nhà trường THPT dù chuyên hay không chuyên bởi môi trường học ở Việt Nam còn nặng về áp đặt kiến thức. Biểu hiện là giáo viên vẫn truyền thụ kiến thức một chiều, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết giảng, các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khăn trải bàn,... mới chỉ mang tính hình thức. Tương tác giữa giáo viên và học sinh trong giờ học tương đối ít, hầu như vẫn là hình thức thầy tác động một chiều đến trò là chủ yếu.
	Phương thức kiểm tra đánh giá của Việt Nam vẫn nặng về tái hiện kiến thức, khía cạnh thể hiện năng lực – đặc biệt là năng lực tư duy đã được chú ý nhưng chưa cao. Hình thức thi này được áp dụng cho nhiều thì ki quan trọng như thi học kì, thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi khu vực... Vì vậy, nhiều học sinh thi quốc gia dễ bị hẫng khi quay trở lại làm bài thi THPT quốc gia.
2.2. Thực trạng học
	Học sinh giỏi Văn đều có nhận thức tốt, cũng năng động, sáng tạo, dễ dàng tiếp thu và thích nghi với cái mới đặc biệt là những đổi thay trong phương pháp dạy học. Các em cũng có điều kiện tiếp cận kiến thức, quan niệm mới. Người học văn vốn nhạy cảm và cũng rất sắc sảo, có những bạn thể hiện cá tính rất rõ rệt. Tất cả đều in dấu trong khả năng tư duy và cái tôi của người viết. 
	Bên cạnh những thuận lợi, thực tế cũng tồn tại không ít khó khăn trong quá trình mài sắc tư duy phản biện cho học sinh giỏi Văn. Chẳng hạn như lối học thụ động, tiếp nhận kiến thức một chiều từ các cấp học dưới đã ăn sâu, thành thói quen trong học tập của nhiều em, khiến học sinh lười, ngại tư duy, động não thực sự. Chính vì thế, trước nhiều vấn đề mới hay phức tạp, các em chưa chủ động đặt và tự giải quyết vấn đề.	
	Nhiều học sinh tư duy phản biện khá tốt nhưng còn e dè, chưa mạnh dạn thể hiện do còn thiếu tự tin. Cũng có học sinh, tư duy phản biện trước các vấn đề xã hội rất chính xác nhưng lại thể hiện trong bài làm thiếu thuyết phục. Đó là do tính cách rụt rè hoặc kĩ năng phản biện của các em còn chưa tốt.
	 Với sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi mong muốn đóng góp một số giải pháp đã tích lũy được trong thực tế dạy học để tận dụng những thuận lợi trong quá trình dạy – học cũng như khắc phục những tồn tại để giúp các em phát triển năng lực tư duy nói chung và đặc biệt là tư duy phản biện nói riêng.
II. Một số biện pháp rèn luyện tư duy phản biện trong dạy - học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi Văn.
1. Tạo không khí dân chủ cho giờ học
Người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo không khí dân chủ trong giờ học – tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy phản biện và dám bày tỏ một cách tự tin.
Một giờ học thật sự hiện đại phải có những đối thoại sôi nổi trong một không khí thực sự dân chủ. Khoảng cách thầy – trò được rút ngắn, quan hệ thầy – trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một môi trường học tập như thế, HS hoàn toàn có đầy đủ tự tin để đưa ra những phản biện để tranh luận với bạn bè, thầy cô về một nội dung nào đó. Và các em sẽ coi đó như là những hoạt động học tập tích cực, sáng tạo.
Bằng cách nào có thể tạo được không khí đối thoại, tự do dân chủ? Có nhiều cách và tùy theo từng đối tượng HS khác nhau:
Thứ nhất, tạo không khí học tập, kích thích tính tò mò, khả năng khám phá của học sinh. Theo Xôcrát, chân lý không có kiểu ăn sẵn mà chân lý và tri thức phải tìm tòi, phát hiện. “Làm cho người ta muốn biết, tranh luận, đối thoại, chân lý sẽ xuất hiện” Lý thuyết về tiếp nhận tác phẩm văn chương cũng đã mở ra nhiều hướng phát triển cho giờ học đối thoại. 
Thứ hai, hướng vào “phản ứng” của HS và phân loại những ý kiến của các em. Chú ý tập hợp thành hai hay nhiều luồng ý kiến đối lập nhau. Đây chính là cơ sở tuyệt vời để tạo đối thoại.
Thứ ba, khéo léo gợi mở, định hướng để các em có cái nhìn so sánh. Nêu ra lí lẽ và dẫn chứng cần thiết để bảo vệ ý kiến của mình. GV cần tỏ ra khách quan, công tâm trong phán xét vấn đề; phải hướng tới tính tối ưu trong giải quyết đối thoại.
Thứ tư, không nên dùng những “đòn phủ đầu” đối với những ý kiến chưa phù hợp. Hãy tỏ ra trân trọng và lắng nghe, hãy để cho các em trình bày trọn vẹn ý kiến của mình. Điều đó giúp các em hiểu rằng, mình đang được học trong một giờ học đầy ắp tính dân chủ.
Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng HS. Với những HS có sự đam mê văn chương thì biện pháp này càng phát huy hiệu quả cao.
Dưới đây là một ví dụ nhỏ, tôi đưa ra vấn đề nghị luận: Có ý kiến cho rằng “Từ thiện là phải thực hiện trong bóng tối”. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao? Khi phát vấn, có học sinh đồng ý, có học sinh không, tôi liền chia lớp thành 2 nhóm theo 2 luồng ý kiến rồi để các em tự tiến hành tranh luận, phản biện với nhau.
“TỪ THIỆN LÀ PHẢI THỰC HIỆN TRONG BÓNG TỐI”
Nhóm 1
(Đồng ý với ý kiến trên)
Nhóm 2
(Không đồng ý với ý kiến trên)
- Từ thiện là hành vi giúp người nhưng không phải tất cả hành động giúp người nào cũng được gọi là từ thiện. Từ thiện thường phải đi chung với bất vụ lợi (làm không vì lợi ích riêng) và thiện nguyện (tự nguyện làm vì điều tốt), bởi vậy nên từ thiện nên diễn ra âm thầm, lặng lẽ, mình làm, mình biết, vậy thôi.
- Nhưng có rất nhiều hoạt động từ thiện công khai đã bị làm cho biến tướng, mất đi ý nghĩa nhân văn thực sự của nó, khiến người làm từ thiện và người nhận từ thiện đều bị soi mói, phán xét, đặt điều. Như việc Bác sĩ Nguyễn Ngọc Chung – Phó Giám đốc Bệnh viện Vị Xuyên, Hà Giang, người đã mang hòm quyên góp ra chợ để xin từ thiện để mổ cứu hai bé song sinh dính liền nhau ở Hà Giang, có những ý kiến cho rằng bác sĩ “làm màu”, nhân cơ hội quảng cáo bản thân, điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách và nghĩa cử của bác sĩ; Ca sĩ Thủy Tiên mang một số tiền lớn đi ủng hộ đồng bào miền Trung nhưng vì một bức ảnh chụp có phần nhăn nhó trong buổi từ thiện mà bị quy chụp là cách làm từ thiện “ban ơn, bố thí” khiến cô khủng hoảng.
- Từ thiện là một việc tốt, đã là việc tốt thì nên có sự lan tỏa trong cộng đồng, như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng... để gió cuốn đi”, nếu việc thiện cũng được lan tỏa như “gió cuốn đi” thì lòng tốt mới được nhân rộng cho cả cộng đồng. Bởi vậy các hoạt động từ thiện nên công khai để tạo ra những hiệu ứng nhân văn, tích cực, mạnh mẽ.
- Không thể chỉ vì một vài hiện tượng tiêu cực của một bộ phận xã hội có nhận thức không đầy đủ mà cho rằng hoạt động từ thiện cứ nên âm thầm, lặng lẽ. Trước những dư luận xấu như thế, hoạt động từ thiện càng phải công khai, càng nên diễn ra trong “ánh sáng” – được nhiều người biết đến để chứng minh giá trị thật sự. Trước những dư luận không tốt của xã hội, chúng tôi chọn đối đầu và thay đổi nó chứ không khuất phục và thay đổi mình vì nó.
2.2. Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học kích thích tư duy phản biện
	Giống như kiểu người kể chuyện “biết tuốt” trong các tác phẩm tự sự truyền thống, nền giáo dục ở các nước phương Đông đề cao thậm chí tuyệt đối hóa vai trò của người thầy. Thầy là người truyền thụ tri thức và nắm giữ chân lí. Và dù có sử dụng các phương pháp gợi mở, đàm thoại hay nêu vấn đề ...thì cuối cùng giáo viên vẫn là người đưa ra kết luận hoặc đảm bảo cung cấp một đáp án đúng. Đây là một “trở lực” hạn chế sự phát triển của tư duy phản biện và tư duy sáng tạo. 
Để khuyến khích tư duy phản biện ở người học, cùng với việc thiết kế câu hỏi mở, không có đáp án duy nhất và câu trả lời cuối cùng; tư duy của người thầy cũng cần phải thay đổi. Giáo dục phản biện phải thực hiện trong môi trường lớp học dân chủ và có sự tương tác nhiều chiều, ở đó cả người dạy và người học đều không có đáp án chính xác cho nội dung được học và thảo luận. Thay vì hướng dẫn HS các kĩ thuật làm bài NLXH, hãy đánh thức sự tò mò, cách tìm 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_tu_duy_phan_bien_trong_day_hoc_van_nghi_luan.doc