SKKN Rèn luyện kỹ năng lập biểu đồ Địa lý lớp 12

SKKN Rèn luyện kỹ năng lập biểu đồ Địa lý lớp 12

Trong dạy học, muốn đạt được hiệu quả cao, cùng với việc truyền thụ kiến thức người giáo viên còn phải rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của môn học. Đối với môn Địa lí, một môn học đòi hỏi học sinh phải có các kĩ năng cơ bản như kĩ năng sử dụng Atlat địa lí, kĩ năng nhận xét bảng số liệu, kĩ năng vẽ và nhận xét biểu đồ, v.v. Trong đó, biểu đồ địa lý là một công cụ trực quan, là một phương tiện không thể thiếu trong giảng dạy, nghiên cứu và học tập địa lý nhất là địa lý kinh tế xã hội.

 Trong môn học địa lí, biểu đồ trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong kênh hình. Có thể nói, biểu đồ là một trong những “Ngôn ngữ đặc thù” của khoa học địa lí. Kĩ năng thể hiện biểu đồ đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với người dạy và học bộ môn khoa học này. Trong các kì thi Tốt nghiệp THPT và Tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, bài thực hành vẽ và nhận xét biểu đồ là một phần bắt buộc phải có nhằm kiểm tra kĩ năng địa lí của học sinh. Số điểm trung bình của phần này là 3/10 điểm (30% số điểm toàn bài thi).

 

doc 24 trang thuychi01 15873
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kỹ năng lập biểu đồ Địa lý lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRUNG TÂM GDTX-DN HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
TÊN ĐỀ TÀI
"RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP BIỂU ĐỒ ĐỊA LÝ LỚP 12"
Người thực hiện: Lê Thị Thúy
 Chức vụ: Giáo viên
	 Đơn vị công tác; Trung Tâm GDTX-DN Hoằng Hóa
 SKKN thuộc môn: Địa Lý
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC: 
 	Trang
I. Mở đầu	 1
 1. Lý do chọn đề tài 1
 2. Mục đích nghiên cứu 2
 3. Đối tượng nghiên cứu	 2
 3.1. Biểu đồ địa lý	 2
 3.2. Các dạng biểu hiện của Biểu đồ địa lý thường gặp ở
 trường THPT. 2
 3.3 Kĩ năng thành lập biểu đồ địa lý ở bậc THPT 3
 4. Phương pháp nghiên cứu	 9
 5. Phạm vi nghiên cứu	 10
 II. Nội dung sáng kiến	 10
 1. Cơ sở lí luận đề xuất sáng kiến kinh nghiệm. 10
 2. Cơ sở thực tiễn	 11
 2.1. Những ví dụ cụ thể	 11
 2.2. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm 	 19
 III. Phần kết luận và kiến nghị	 20
 1. Đánh giá chung 	 20
 2. Kiến nghị và đề xuất	 20
I. Mở đầu 
Lý do chọn đề tài
 Trong dạy học, muốn đạt được hiệu quả cao, cùng với việc truyền thụ kiến thức người giáo viên còn phải rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của môn học. Đối với môn Địa lí, một môn học đòi hỏi học sinh phải có các kĩ năng cơ bản như kĩ năng sử dụng Atlat địa lí, kĩ năng nhận xét bảng số liệu, kĩ năng vẽ và nhận xét biểu đồ, v.v. Trong đó, biểu đồ địa lý là một công cụ trực quan, là một phương tiện không thể thiếu trong giảng dạy, nghiên cứu và học tập địa lý nhất là địa lý kinh tế xã hội. 
 Trong môn học địa lí, biểu đồ trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong kênh hình. Có thể nói, biểu đồ là một trong những “Ngôn ngữ đặc thù” của khoa học địa lí. Kĩ năng thể hiện biểu đồ đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với người dạy và học bộ môn khoa học này. Trong các kì thi Tốt nghiệp THPT và Tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, bài thực hành vẽ và nhận xét biểu đồ là một phần bắt buộc phải có nhằm kiểm tra kĩ năng địa lí của học sinh. Số điểm trung bình của phần này là 3/10 điểm (30% số điểm toàn bài thi).
 Với xu hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm nhằm khuyến khích học sinh tự học, tự nghiên cứu. Trong khi đó chương trình sách giáo khoa địa lý số tiết thực hành lại rất ít cho nên học sinh ít có cơ hội rèn luyện kĩ năng thành lập biểu đồ, một trong những kỹ năng giúp học sinh tự học, khắc sâu kiến thức cho học sinh và mặt khác tạo ra sự hứng thú trong học tập, do đó việc sử dụng biểu đồ trong dạy học nói chung và trong thiết kế ở một số tiết học trên lớp nói riêng là rất cần thiết đối với học sinh. Là một giáo viên dạy học ở Trung Tâm GDTX- DN Hoằng Hóa, tôi nhận thấy việc hình thành các kĩ năng thực hành Địa lí của học sinh là rất hạn chế, chất lượng học sinh vẫn chưa cao. Đặc biệt là tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi trong các kì thi tốt nghiệp phổ thông và thi đại học, cao đẳng còn thấp, điều đó đã làm cho tôi luôn trăn trở. Tôi luôn nghĩ: phải làm thế nào để học sinh đi thi đạt điểm tối đa ở phần thực hành địa lí để kết quả bài thi cao hơn? Vì vậy, những năm gần đây trong quá trình giảng dạy và ôn thi cho học sinh, tôi đã nghiên cứu và tìm được cách ôn luyện phù hợp, học sinh biết cách và thích làm các bài thực hành biểu đồ nên kết quả đã được nâng lên. Việc thực nghiệm đã được tiến hành trong hai năm học (năm học 2013 – 2014 và năm học 2014 – 2015) và tiếp tục thực hiện trong năm học 2015 – 2016 kết quả thi thử tốt nghiệp THPT đã được nâng lên đáng kể (tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình trở lên là 70%, trong đó học sinh đạt điểm khá, giỏi là 15%.
	Từ kinh nghiệm thực tiễn của ba năm ôn thi tốt nghiệp cho học snh lớp 12 tôi mạnh dạn viết lại một trong những kinh nghiệm ôn thi của của mình, đó là:
“ Phương pháp rèn luyện kỹ năng lập biểu đồ cho học sinh lớp 12 nhằm đạt kết qua cao trong kì thi tốt nghiệp THPT” 
2. Mục đích nghiên cứu:
 Để nhằm đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng hiệu quả của học sinh TTGDTX& DN nói riêng và các trường THPT nói chung
 Kỹ năng thành lập biểu đồ địa lý có ý nghĩa quan trọng cả về mặt sư phạm và thực tiễn. 
 - Về mặt sư phạm: Việc thành lập biểu đồ sẽ giúp người học phát triển tư duy, tính độc lập, sáng tạo trong học tập đồng thời nó giúp người học hiểu và khắc sâu kiến thức địa lý một cách vững chắc. 
 - Về mặt thực tiễn: Việc thành lập biểu đồ giúp người học trình bày một cách sinh động trực quan những kiến thức địa lý cần thể hiện. 
 Xuất phát từ lý do nói trên với những kinh nghiệm của bản thân, tôi tiến hành thực hiện sáng kiến kinh nghiệm xây dựng một số kỹ năng thành lập biểu đồ để áp dụng dạy học địa lý lớp 12 ở Trung tâm GDTX-DN Hoằng Hóa và thông qua bài tập này, bản thân tôi rất mong muốn góp một phần của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học địa lý ở trường nói riêng và THPT nói chung. 
3. Đối tượng nghiên cứu.
 	3.1. Biểu đồ địa lý: 
 Biểu đồ là mô hình hóa các số liệu thống kê nhằm giúp người sử dụng nhận biết một cách trực quan các đặc trưng về số lượng, một phần về chất lượng hoặc động lực của các đối tượng, hiện tượng. 
 Biểu đồ địa lý là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng tiến trình của một hiện tượng, mối tương quan về độ lớn của các đại lượng hoặc kết cấu thành phần trong một tổng thể của các đối tượng địa lý. 
 3.2. Các dạng biểu hiện của Biểu đồ địa lý thường gặp ở trường THPT. 
 - Dạng biểu đồ hình cột: Dạng biểu đồ này khá đa dạng bao gồm cột đơn, cột chồng lên nhau, cột ghép 
 - Dạng biểu đồ thanh ngang: Thực chất là một dạng biểu đồ cột khi trục đứng và trục ngang đổi chỗ cho nhau. 
 - Dạng biểu đồ ô vuông: Dạng này thể hiện một hình vuông lớn, khi thể hiện cơ cấu của một tổng, nó được chia thành 100 ô vuông nhỏ. 
 - Dạng biểu đồ miền: Là loại bểu đồ thể hiện được cả cơ cấu và động thái phát triển của các đối tượng. Toàn bộ biểu đồ là một hình chữ nhật trong đó được chia thành các miền khác nhau. Dạng này có thể thể hiện cả giá trị tuyệt đối và tương đối. 
 - Dạng biểu đồ hình tròn: Được dùng để thể hiện qui mô và cơ cấu các thành phần trong một tổng thể. 
 - Dạng biểu đồ đường (đồ thị): Thể hiện cả giá trị tương đối và tuyệt đối. 
 - Dạng biểu đồ kết hợp: Phổ biến là dạng biểu đồ kết hợp giữa biểu đồ cột và đường biểu diễn. 
 Ngoài ra còn gặp nhiều dạng khác của biểu đồ như biểu đồ tam giác, hình thoi, hình trụ
3.3 Kĩ năng thành lập biểu đồ địa lý ở bậc THPT: 
3.3.1. Khi thành lập biểu đồ cần tuân thủ 3 nguyên tắc: 
 - Khoa học: Biểu đồ phải đảm bảo tính chính xác (dựa trên cơ sở toán học)
 - Trực quan: Biểu đồ được thành lập phải rõ ràng, dễ đọc (nghĩa là nhìn vào biểu đồ người đọc biết được ý đồ cũng như nội dung mà người thành lập muốn truyền đạt). 
 - Thẩm mĩ: Biểu đồ phải đẹp, hài hòa trong cách thể hiện. 
 Để đảm bảo được tính trực quan và thẩm mĩ, khi vẽ biểu đồ người ta thường dùng ký hiệu để phân biệt các đối tượng trên biểu đồ. Các ký hiệu này thường được biểu thị bằng các cách: 
 + Gạch nền: (gạch dọc, ngang, chéo, ô vuông)
 + Dùng các ước hiệu toán học: (dấu cộng, trừ, nhân)
3.3.2 Kĩ năng thành lập các dạng biểu đồ ở chương trình địa lý THPT: 
3.3.2.1 Kĩ năng chung: 
 Để thành lập được một biểu đồ địa lý cần phải nắm vững các qui trình chung sau: 
 - Kĩ năng lựa chọn được biểu đồ thích hợp nhất
 - Kĩ năng tính toán xử lí các số liệu ví dụ như: 
+ Tính tỉ lệ giá trị cơ cấu (%)
+ Tính tỉ lệ về chỉ số phát triển. 
+ Quy đổi tỉ lệ phần % ra độ, góc hình quạt đường tròn
+ Tính bán kính các vòng tròn có giá trị đại lượng tuyệt đối khác nhau. 
 - Kĩ năng vẽ biểu đồ: (vẽ chính xác, nhanh, đẹp, đúng quy trình quy tắc và đáp ứng đầy đủ các tiêu chí đánh giá)
 - Kĩ năng nhận xét, phân tích biểu đồ. 
Để có được các kĩ năng trên, chúng ta không chỉ cần hiểu về lí thuyết mà phải được thực hành nhiều. Điều cần nói thêm là, học sình thường phải làm các bài tập thực hành vẽ biểu đồ trong giờ kiểm tra hay giờ thi với quỹ thời gian rất ngắn. Vì thế, chỉ khi luyện tập thành kĩ năng mới thể hiện đạt yêu cầu. 
3.3.2.2. Hướng dẫn thực hiện các yêu cầu chung
a. Nghiên cứu lựa chọn được biểu đồ thích hợp nhất
Câu hỏi của bài thực hành về vẽ biểu đồ thường có 3 thành phần
 - Lời dẫn (đặt vấn đề)
 - Bảng số liệu thống kê (tỉ lệ % hay tuyệt đối) và danh số (triệu ha, triệu tấn, tỷ đồng năm..)
 - Lời kết nêu yêu cầu cụ thể cần làm. 
Khi phân tích các câu hỏi bài tập để chọn biểu đồ, chúng ta cần tìm hiểu khai thác từng thành phần trên. 
a1. Tìm hiểu lời dẫn để chọn loại biểu đồ
Câu hỏi thực hành về biểu đồ thường có các lời dẫn theo 3 dạng sau: 
 - Lời dẫn chỉ định: Xác định ngay loại biểu đồ cần vẽ
Thí dụ: “Hãy vẽ biểu đồ hình tròn về cơ cấu sử dụng đất của nước ta năm 2012 theo số liệu sau..”
 - Lợi dẫn “mở”: Có gợi ý ngầm vẽ một loại biểu đồ nhất định
Thí dụ:“ vẽ biểu đồ thể hiện sản lượng công nghiệp ở nước ta phân theo các vùng kinh tế năm 2012”... 
 - Lời dẫn “kín”: không đưa ra một gợi ý nào. 
Thí dụ:“ cho bảng số liệu sau... hãy vẽ biểu đồ thích hợp và rút ra nhận xét”
Căn cứ vào các dạng lời dẫn trên, chúng ta sẽ sử lí như sau: 
 - Với lời dẫn đã chỉ định: Ta vẽ theo chỉ định. 
 - Với lời dẫn “kín”:Ta chuyển xuống nghiên cứu các thành phần sau của câu hỏi
 - Với dẫn “mở”: Cần chú ý bám vào một số từ gợi mở chủ đề như: 
+ Với loại biểu đồ đường biểu diễn. Thường có lời dẫn với các từ gợi mở như:“Tăng trưởng”, “Biến động”, “Phát triển”, qua các năm từ đến”
Thí dụ: Vẽ biểu đồ thể hiện tình hình phát triển dân số của nước ta
+ Với biểu đồ hình cột: Thường dùng các từ gợi mở như “khối lượng”, “sản lượng”, “Diện tích”, “trong năm và năm”, “qua các thời kì”. 
Thí dụ: Vẽ biểu đồ thể hiện khối lượng hàng hóa vận chuyển của nước ta
+ Với biểu đồ cơ cấu: Thường được gợi mở bằng các từ thể hiện cơ cấu như: “cơ cấu”, “Phân theo’, “Trong đó”, “Bao gồm”, “chia ra”, “chia theo”. 
Thí dụ; Vẽ biểu đồ thể hiện giá trị ngành sản xuất công nghiệp phân theo
a2. Nghiên cứu đặc điểm của bảng số liệu để chọn loại biểu đồ. 
 - Ngoài việc nghiên cứu lời dẫn để lựa chọn loại biểu đồ, ta còn có thể căn cứ vào đặc điểm của bảng số liệu thống kê để chọn biểu đồ: 
 - Nếu đề bài đưa ra dãy số liệu (Tỉ lệ % hay số liệu tuyệt đối) phát triển theo chuỗi thời gian. Ta sẽ chọn vẽ biểu đồ đường biểu diễn. 
 - Nếu có dãy số liệu tuyệt đối về quy mô, khối lượng của một hay nhiều đối tượng biến động theo mốt số thời điểm hay theo các thời kì (Giai đoạn) ta sẽ chọn vẽ: Biểu đồ hình cột. 
 - Trường hợp có 2 đối tượng với 2 đại lượng khác nhau nhưng có mối quan hệ hữu cơ. Thí dụ: Diện tích (ha) và sản lượng (tấn) lúa của một vùng lãnh thổ diễn biến qua một chuỗi thời gian ta sẽ chọn vẽ: Biểu đồ kết hợp (cột và đường)
 - Nếu bảng số liệu có từ 3 đối tượng trở lên với các đại lượng khác nhau (như: “tấn”, “ha”, “mét”) Diễn biến qua thời gian ta cần chọn vẽ: Biểu đồ chỉ số. 
 - Trường hợp gặp bảng số liệu được trình bày theo dạng phân chia ra từng thành phần cơ cấu như: 
Năm
Tổng số
Chia ra (Trong đó)
Nông - lâm - ngư nghiệp
Công nghiệp - xây dựng
Dịch vụ
Với bảng số liệu trên chúng ta có thể chọn vẽ: Loại biểu đồ cơ cấu. 
Tuy nhiên, biểu đồ cơ cấu lại có một số loại chủ yếu, việc lựa chọn loại biểu đồ nào để vẽ cần căn cứ vào đặc điểm của các con số trong bảng thống kê. 
 - Vẽ biểu đồ hình tròn: Phải có số liệu tương đối hoặc số liệu tuyệt đối của các thành phần hợp đủ giá trị tổng thể mới có đủ dữ kiện tính ra tỷ lệ cơ cấu (%)để vẽ biểu đồ hình tròn. 
 - Vẽ biểu đồ cột chồng: Nếu một tổng thể có quá nhiều thành phần, ta khó thể hiện trên biểu đồ hình tròn (vì các góc hình quạt sẽ quá hẹp), trường hợp này chuyển sang chọn biểu đồ cột chồng dẽ thể hiện hơn. 
 - Vẽ biểu đồ miền: Khi trên bảng số liệu, các đối tượng trải qua trên 3 thời điểm ta không vẽ biểu đồ hình tròn mà chuyển sang vẽ biểu đồ miền sẽ hợp lí hơn. 
a3. Căn cứ vào yêu cầu trong lời kết của câu hỏi để lựa chọn biểu đồ. 
Có nhiều trường hợp trong nội dung lời kết của câu hỏi lại gợi ý yêu cầu vẽ một loại biểu đồ cụ thể nào đó. 
Thí dụ: Sau khi nêu lời dẫn và đưa ra bảng thống kê, câu hỏi ghi tiếp: “Anh chị hãy vẽ biểu đồ thích hợp và nêu nhận xét về sự chuyển dịch cơ cấu tổng sản phẩm trong nước và giải thích nguyên nhân của sự chuyển dịch cơ cấu đó”. 
Cần lưu ý rằng: Hệ thống biểu đồ có nhiều loại, trong mỗi loại lại có một số dạng. Các loại biểu đồ cùng loại, trong một số trường hợp có thể sử dụng thay thế nhau; Vì vậy, muốn lựa chọn được dạng biểu đồ thích hợp nhất ta cần hiểu rõ những ưu điểm, hạn chế cũng như khả năng biểu đạt của từng dạng biểu đồ. 
b. Kĩ thuật tính toán và xử lí các số liệu phục vụ vẽ biểu đồ
 Xử lý số liệu: Phải căn cứ vào chủ đề, dạng thể hiện của biểu đồ để tiến hành xử lý số liệu. Việc đổi các số liệu tuyệt đối sang tương đối phải căn cứ vào các công thức tính toán cho phù hợp. 
 Ví dụ: + Cán cân xuất nhập khẩu = giá trị xuất khẩu – giá trị nhập khẩu. 
 + Tỉ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu được tính bằng công thức: 
 X
 T= x 100
 N 
 Trong đó: T: tỉ lệ xuất khấu so với nhập khẩu 
 X: giá trị xuất khẩu
 N: giá trị nhập khẩu
 + Mức tăng trưởng (%)của năm sau so với năm gốc (cho năm gốc =100%)
 Gs
 Tt = 	 x 100
	 Gg
 Trong đó Tt: Mức tăng trưởng của năm sau so với năm gốc
 Gs: Giá trị của năm sau
 Gg: giá trị của năm gốc
 + Mức tăng trưởng của năm sau so với năm trước (cho năm trước là 100%)
 Gs
 Tt = x 100
 Gt
 Trrong đó: Tt: Mức tăng trưởng của năm sau so với năm trước 
 Gs: Giá trị của năm sau 
 Gt: Giá trị của năm trước
 + Công thức tính bán kính của vòng tròn để so sánh qui mô giữa các giá trị của các đại lượng địa lý trong các năm. 
 Gọi giá trị của năm thứ nhất với vòng tròn có diện tích S1, có bán kính là r1. 
 Gọi giá trị của năm thứ hai ứng với vòng tròn có diện tích S2 và bán kính r2 
 Ta có công thức tính: r2 = r1 
	Sản lượng
 + Năng suất (tạ /ha) = 	
 Diện tích
	 Sản lượng 
 + Bình quân lương thực theo đầu người (Kg/người) = 	
 Dân số
 + Gia tăng dân số (%) =tỷ suất sinh – tỷ suất tử
 + Tính tỉ lệ cơ cấu (%) của từng thành phần trong một tổng thể. 
Có 2 trường hợp xảy ra: 
* Bảng thống kê có cột tổng số. Ta chỉ cần tính theo công thức: 
 Từng thành phần 
Tỷ lệ cơ cấu (%) = x 100
 Tổng số
*Nếu bảng thống kê không có cột tổng số. Trước hết ta cần cộng số liệu giá trị tuyệt đối của các thành phần để tìm ra tổng số, rồi tiếp tục tính ra tỉ lệ cơ cấu như trên. 
+ Tính quy đổi tỷ lệ (%) của từng thành phần ra độ góc hình quạt để vẽ biểu đồ hình tròn. 
Ta dùng phép suy luận như sau: 
Toàn bộ tổng thể = 100%, phủ kín toàn bộ hình tròn (3600). Do đó 1% tương ứng với 3,60. 
Ta chỉ việc nhân số tỉ lệ giá trị (%) của từng thành phần với 3,60 để tìm ra độ và góc thành phần cần vẽ. (Sau đó dùng thước đo độ để thể hiện cho chính xác.)
c. Rèn luyện kĩ năng nhận xét phân tích biểu đồ
	Khi phân tích biểu đồ, cần căn cứ vào các số liệu ở bảng thống kê và đường nét thể hiện trên biểu đồ: không thoát li khỏi các dữ kiện được nêu trong số liệu biểu đồ, không nhận xét chung chung (cần có số liệu kèm theo các ý nhận xét). Phần nêu nguyên nhân cần dựa vào kiến thức các bài đã học để viết cho đúng yêu cầu. 
Cần chú ý: 
 - Đọc kĩ câu hỏi để nắm được yêu cầu và phạm vi cần nhận xét, phân tích. 
 - Cần tìm ra mối liên hệ hay tính quy luật nào đó giữa các số liệu. 
 - Không được bỏ xót các dữ liệu cần phục vụ cho nhận xét, phân tích. 
 - Trước tiên nhận xét phân tích các số liệu có tầm khái quát chung, sau đó mới phân tích các số liệu thành phần. 
 - Chú ý tìm mối quan hệ so sánh giữa các con số theo cả hàng ngang và hàng dọc nếu có. 
 - Chú ý những giá trị nhỏ nhất (thấp nhất), lớn nhất và trung bình. Đặc biệt chú ý đến những số liệu hoặc hình nét đường, cột thể hiện sự đột biến (tăng hay giảm nhanh). 
- Cần có kĩ năng tính tỉ lệ (%) hoặc tính ra số lần tăng hay giảm của các con số để chứng minh cụ thể ý kiến nhận xét. 
Phần nhận xét phân tích thường có 2 nhóm ý. 
 - Những ý nhận xét về diễn biến và mối quan hệ giữa các số liệu. 
 - Giải thích nguyên nhân của các diễn biến hoặc mối quan hệ đó (Chú ý cần dựa vào kiến thức đã học để giải thích)
Về sử dụng ngôn từ trong lời nhận xét, phân tích biểu đồ: 
- Trong các loại biểu đồ cơ cấu mà số liệu đã được quy thành các tỷ lệ% ta phải dùng từ Tỷ trọng trong cơ cấu để so sánh nhận xét. Thí dụ: 
Nhận xét biểu đồ về cơ cấu giá trị các ngành kinh tế nước ta qua một số năm. Ta không ghi: Giá trị ngành nông – lâm nghiệp có xu hướng giảm sút, mà ghi: tỷ trọng giá trị của ngành nông – lâm nghiệp có xu hướng giảm. 
 - Cần sử dụng những từ ngữ phù hợp với trạng thái phát triển của các đổi tượng trên biểu đồ: 
* Về trạng thái tăng: 
	Có các từ nhận xét theo từng cấp độ như: “Tăng”, “tăng mạnh”, “tăng nhanh”, “tăng đột biến”, “tăng liên tục”kèm theo các từ đó bao giờ cũng có số liệu dẫn chứng cụ thể tăng bao nhiêu (triệu tấn, tỷ đồng, triệu dân) Hoặc tăng bao nhiêu phần trăm? Hay bao nhiêu lần?
* Về trạng thái giảm: 
Cần dùng những từ như: “Giảm”, “giảm ít”, “giảm mạnh”, “giảm nhanh”, “giảm chậm” “giảm đột biến” kèm theo là các con số dẫn chứng cụ thể. 
* Về nhận xét tổng quát: 
Cần dùng các từ diễn đạt sự phát triển như: “phát triển nhanh”, “phát triển chậm”, “phát triển ổn định”, “phát triển không ổn định”, “phát triển đều”, “có sự chênh lệch giữa các vùng”. 
d. Kĩ thuật vẽ biểu đồ
 Khi vẽ biểu đồ cần dựa vào số liệu để chọn kiểu thể hiện biểu đồ sao cho phù hợp nhằm đảm bảo tính thẩm mỹ và độ chính xác cao của biểu đồ. Một biểu đồ cần phải có đầy đủ hệ thống chú giải, tên biểu đồ. Tên của biểu đồ thường được xác định chính là vẽ biểu đồ. 
 - Hoàn chỉnh biểu đồ: để hoàn chỉnh biểu đồ địa lý cần phải biết rõ những yêu cầu của một biểu đồ đó là: 
 + Đảm bảo tính trực quan dễ xây dựng. 
 + Đảm bảo tính thẩm mỹ. 
 + Đảm bảo tính chính xác, khoa học. Biểu đồ phải phản ánh trung thực các số liệu đã có. Hạn chế tối đa mức độ sai số trong khi vẽ. 
4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Khảo sát kỹ năng thành lập biểu đồ của học sinh để nắm được mức độ hiểu biết của các em về khả năng này.
- Trên cơ sở kết quả khảo sát, phân tích đánh giá tình hình để lựa chọn những kỹ năng cần thiết cho học sinh, lựa chọn cách hướng dẫn phù hợp với từng đối tượng
- Trong quá trình dạy hàng ngày, thường xuyên sử dụng các kỹ năng này và chú ý rèn luyện cho học sinh vào các giờ học, vào giờ kiểm tra bài cũ, nhất là trong các giờ thực hành.
- Kiểm tra lại kết quả và có điều chỉnh bổ sung kịp thời
 5. Phạm vi nghiên cứu
 - Với kỹ năng thành lập biểu đồ này, tôi đã áp dụng giảng dạy ở trường TTGDTX – DN Hoằng Hóa khối 12 gồm 12A, 12C 
 - Đối tượng học sinh: Đối tượng học sinh đa dạng có nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận kiến thức. Có những học sinh vừa học vừa phải giúp gia đình. Thời gian học ở nhà còn hạn chế, khả năng nhận thức của các em còn nhiều hạn chế 
II. Nội dung sáng kiến
1. Cơ sở lí luận đề xuất sáng kiến kinh nghiệm. 
1. 1. Biểu đồ là một hình vẽ có tính trực quan cao, cho phép mô tả: 
 - Động thái phát triển của một hiện tượng địa lí như: “Biểu đồ về tình hình phát triển dân số nước ta qua các năm”
 - Thể hiện quy mô, độ lớn của một đại lượng nào đó như: “Biểu đồ diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm và cây công nghiệp lâu năm của nước ta”
 - So sánh tương quan độ lớn giữa các đại lượng như: Biểu đồ về mức lương thực trên đầu người một năm của cả nước, đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long..”
- Thể hiện tỉ lệ cơ cấu thành phần trong một tổng thể hoặc nhiều tổng thể có cùng một đại lượng: “Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp.”
 - Thể hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu các thành phần qua một số năm: “Biểu đồ cơ cấu tổng sản phẩm xã hội phân theo ngành kinh tế từ năm 1996 đến năm 2012 của nước ta”
 Vì lí do trên nên kĩ năng thể hiện biểu đồ đã trở thành một nội dung đánh giá học sinh học môn địa lí. Trong nhiều năm qua, các đề thi tuyển vào các trường Đại học, cao đẳng cũng như thi học sinh giỏi quốc giaĐều chú trọng đến nội dung kiểm tra, đánh giá đồng thời cả kiến thức cơ bản và kĩ năng thực hành. 
 1.2. Về khái quát, ta có thể phân những đề thi trên thành câu hỏi lí thuyết và câu hỏi thực hành (Trong đó phần lí thuyết chiếm khoảng 65% đến 70% tổng số đi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ky_nang_lap_bieu_do_dia_ly_lop_12.doc