SKKN Phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng nghiên cứu bài học

SKKN Phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng nghiên cứu bài học

 Quyết định số 4763/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về việc phê duyệt Đề án "Xây dựng mô hình trường phổ thông đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục giai đoạn 2012-2015", tiếp sau công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 của Bộ GDĐT về việc hướng dẫn áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, Bộ GDĐT hướng dẫn triển khai thực hiện thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông, bắt đầu từ năm học 2013-2014, trong đó về mục đích là:

 - Khắc phục hạn chế của chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) hiện hành, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, hoạt động giáo dục của các trường phổ thông tham gia thí điểm.

 - Củng cố cơ chế phối hợp và tăng cường vai trò của các trường sư phạm, trường phổ thông thực hành sư phạm và các trường phổ thông khác trong các hoạt động thực hành, thực nghiệm sư phạm và phát triển CT giáo dục nhà trường phổ thông.

 - Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục, phát triển CT giáo dục nhà trường phổ thông cho đội ngũ giảng viên các trường/khoa sư phạm, giáo viên các trường phổ thông tham gia thí điểm.

 - Góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông (GDPT) sau năm 2015.

 

doc 17 trang thuychi01 9701
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng nghiên cứu bài học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU.
a. Lí do chọn đề tài:
 Quyết định số 4763/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về việc phê duyệt Đề án "Xây dựng mô hình trường phổ thông đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục giai đoạn 2012-2015", tiếp sau công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 của Bộ GDĐT về việc hướng dẫn áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, Bộ GDĐT hướng dẫn triển khai thực hiện thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông, bắt đầu từ năm học 2013-2014, trong đó về mục đích là:
 - Khắc phục hạn chế của chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) hiện hành, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, hoạt động giáo dục của các trường phổ thông tham gia thí điểm.
 - Củng cố cơ chế phối hợp và tăng cường vai trò của các trường sư phạm, trường phổ thông thực hành sư phạm và các trường phổ thông khác trong các hoạt động thực hành, thực nghiệm sư phạm và phát triển CT giáo dục nhà trường phổ thông.
 - Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục, phát triển CT giáo dục nhà trường phổ thông cho đội ngũ giảng viên các trường/khoa sư phạm, giáo viên các trường phổ thông tham gia thí điểm.
 - Góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông (GDPT) sau năm 2015.
 Theo quan điểm dạy học hiện đại, quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Vai trò của giáo viên trong dạy học hiện đại là tổ chức, định hướng và kiểm tra hoạt động của học sinh. Trong học tập, học sinh sử dụng tư liệu dạy học, trao đổi và tranh luận với nhau, trao đổi và tranh luận với giáo viên. Vì vậy, hoạt động của học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Sinh hoạt chuyên môn cũng phải được thực hiện theo hướng lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm.
Mục đích của sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học là nhằm phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên và năng lực học tập cho học sinh, qua đó từng bước nâng cao chất lượng dạy và học trong trường. Cụ thể là:
- Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia quá trình học tập, không có học sinh nào bị bỏ rơi;
- Khuyến khích, tạo cơ hội cho giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực thông qua dự giờ minh họa mỗi giáo viên tự rút ra kinh nghiệm để vận dụng trong các giờ dạy của mình.
- Giúp giáo viên tìm các giải pháp trong quá trình dạy học nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh. Người dự tập trung phân tích hoạt động học nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh, phát hiện những khó khăn mà học sinh gặp phải, tìm các giải pháp nhằm nâng cao kết quả học tập, mạnh dạn đưa ra những thay đổi, điều chỉnh nội dung, cách dạy cho phù hợp.
- Góp phần làm thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường: cải thiện mối quan hệ giữa lãnh đạo nhà trường với giáo viên, giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, cán bộ quản lí/giáo viên/học sinh với nhân viên trong nhà trường; tạo môi trường “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
 	Định hướng đó thực chất là yêu cầu bức thiết đang đặt ra cho toàn ngành giáo dục, tức là cần chuyển từ “ Dạy học lấy giáo viên làm trung tâm” sang dạy “lấy học sinh làm trung tâm”, phải tích cực hóa các hoạt động của học sinh, khơi dậy cho học sinh sự khao khát, tìm tòi, nghiên cứu cố gắng phát huy tính tích cực, trí tuệ và nghị lực để nắm vững kiến thức. Muốn thực hiện được điều này mỗi nhà trường, mỗi giáo viên phải có những bước chuyển biến trong cải tiến phương pháp dạy và học. 
 	 Thế kỷ 21 với nền kinh tế tri thức đòi hỏi con người muốn tồn tại đều phải học, học suốt đời. Vì thế năng lực học tập của con người phải được nâng lên mạnh mẽ nhờ vào trước hết người học biết “Học cách học” và người dạy biết “Dạy cách học”. Như vậy thầy giáo phải là “Thầy dạy việc học, là chuyên gia của việc học”.
 Ngày nay dạy cách học đã trở thành một trong những mục tiêu đào tạo, chứ không còn chỉ là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
 	Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm, giải quyết nhanh, sáng tạo và hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành đạt trong học tập và cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đưa ra và giải quyết các vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng, không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà được đặt ra như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
 Xuất phát từ những nhu cầu trên, cùng đồng hành trên bước đường giáo dục kiến thức cũng như phẩm chất đạo đức của các em, là giáo viên địa lí tôi mạnh dạn đưa ra một số sáng kiến và kinh nghiệm về : phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng nghiên cứu bài học mà bản thân tôi đã làm được trong thời gian qua.
 b. Mục đích ngiên cứu:
 - Trên cơ sở dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người dạy phải tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra những phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất, giúp người học tự tìm ra các đơn vị kiến thức theo cách của mình.
 - Tìm kiếm, nghiên cứu phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
 - Vận dụng phương pháp khoa học, phối hợp nhịp nhàng giữa các phương pháp trong một bài học sao cho tiết học mạng lại hiệu quả cao nhất đối với người học.
 c. Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng nghiên cứu bài học trong dạy học địa lí tại trường THPT Thạch Thành 3, Thạch Thành, Thanh Hóa cho cả 3 khối 10,11,12.
 d.Phương pháp:
- Học hỏi từ những đồng nghiệp đi trước.
- Thường xuyên tự học tự bồi dưỡng, theo dõi, bổ sung thông tin ở các phương tiện thông tin đại chúng để cập nhật những thay đổi.
 - Nghiên cứu, tìm hiểu các kiến thức liên môn từ các bộ môn khác như: toán, lí, hóa, sinh, sử, văn
 - Thăm dò, tìm hiểu, nghiên cứu từng đối tượng, từng lứa tuổi, tâm sinh lí học sinh.
 - Lắng nghe ý kiến các em từ những môn học, kịp thời sửa chữa những thiếu sót trong chuyên môn khi có sự góp ý.
- Tham gia, nghiên cứu các chuyên đề đổi mới chuyên môn nghiệp vụ do Sở giáo dục, trường tổ chức.
! 2. NỘI DUNG .
2.1. Cơ sở lý luận. 
 	Dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học là sự lựa chọn của nền giáo dục hiện đại. Bản chất của dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học là tổ chức quá trình người học lĩnh hội nội dung dạy học theo logic nghiên cứu bài học. Ta có thể nói đến một trật tự tương tự trong thiết kế từng môn học và từng vấn đề trong nội dung môn học. Việc nghiên cứu một môn học hay một bài học sẽ bắt đầu từ việc người dạy cùng với người học phát hiện/đặt ra vấn đề cần giải quyết (vấn đề lý luận hay thực tiễn) trong khuôn khổ môn học và liên môn. Giai đoạn tiếp theo sẽ là giải quyết vấn đề đặt ra thông qua các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn do người học tiến hành. Ở đây công việc của người dạy là hướng dẫn và trợ giúp, công việc của người học là người thực hiện việc giải quyết vấn đề. Giai đoạn cuối sẽ là đánh giá việc đặt và giải quyết vấn đề, và trên cơ sở đó đặt ra những vấn đề mới để giải quyết. Cứ như vậy toàn bộ quá trình dạy học sẽ là một chu trình liên tục đặt và giải quyết các vấn đề. Có thể hình dung quá trình dạy học như một chuỗi hoạt động liên tục như sau:
Phát hiện vấn đề
Đưa ra giả thuyết/hướng giải quyết vấn đề
Lập phương án thu thập thông tin
Xử lí thông tin thu thập
Tổng hợp, đánh giá kết quả
Từ đó đặt ra vấn đề mới để giải quyết
Ở mỗi giai đoạn trong chuỗi trên là hoạt động cùng nhau của cả người dạy và người học theo nguyên tắc người dạy hướng dẫn, cố vấn, trợ giúp - người học chủ động tiến hành việc tìm kiếm, giải quyết vấn đề. Ở đây các kỹ thuật dạy học khác nhau, từ tự nghiên cứu, quan sát, làm thực nghiệm đến thảo luận, thuyết trình, làm báo cáo đều có thể được sử dụng. Có thể thấy ở đây sự dung hợp trong hướng dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học các phương pháp và kỹ thuật dạy học hiện đại, tích cực.
Dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học có những ưu thế gì?
  Bảo đảm vị thế tích cực, chủ động của người học. Người học được đặt vào vị trí chủ động nhất: tìm tòi, phát hiện và độc lập giải quyết (thông qua các nghiên cứu lý luận và thực tiễn do chính mình thực hiện) các vấn đề lý luận và thực tiễn của từng bộ môn.
Hình thành phương pháp làm việc khoa học. Ở đây người học được tập luyện tối đa phương pháp làm việc theo đúng quy trình tự nghiên cứu bài học. Điều này tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành ở người học các phẩm chất và năng lực, kỹ năng và kinh nghiệm tự nghiên cứu – yêu cầu bắt buộc đối với người trí thức thời đại kinh tế tri thức và xã hội học tập.
Phát triển hứng thú nhận thức, thỏa mãn nhu cầu tìm tòi, khám phá của người học. Trong hướng dạy học này người học không chỉ tự mình tìm cách giải quyết các vấn đề đặt ra mà còn tự phát hiện ra các vấn đề mới cần giải quyết. Điều này thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của con người – nhu cầu tìm tòi khám phá. Những cảm xúc có được thông qua sự tìm tòi khám phá, cảm xúc thành công và cảm xúc về sự hoàn thành trọn vẹn một công việc là những củng cố tích cực cho việc hình thành và phát triển nhu cầu và hứng thú nhận thức của người học.
Bảo đảm tốt nhất yêu cầu cá biệt hóa dạy học, phù hợp với tốc độ, nhịp độ học tập của từng người học. Mỗi người học đặt ra và giải quyết các vấn đề trong khả năng của mình, với tốc độ và nhịp độ phù hợp nhất với mình. Điều này cho phép hiện thực hóa tối đa yêu cầu cá biệt hóa dạy học, đồng thời cũng bảo đảm một sự đánh giá khách quan nhất những tiến bộ của người học.
Phù hợp đặc điểm tâm lý-nhận thức. G.A.Kelly, nhà tâm lý học xuất sắc thế kỷ XX, nhìn nhận mỗi con người là một nhà khoa học, nó cố gắng hiểu, lý giải, dự đoán, kiểm soát thế giới các sự kiện để có thể tác động qua lại có hiệu quả với chúng. Cách thức nhận thức thế giới của con người giống hệt như cách thức nhận thức của nhà khoa học. Người học, họ chủ động xây dựng kiến thức cho bản thân bằng cách tạo các biểu tượng của chính họ về những điều cần học, lựa chọn thông tin mà họ nhận thấy là thích hợp, và diễn giải thông tin trên cơ sở kiến thức và nhu cầu hiện có của họ (Prawat & Floden, 1994). Chính những lý do này cho phép khẳng định, về mặt tâm lý học dạy học, dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học là phù hợp hơn cả đối với người học trong giai đoạn hiện nay.
Bảo đảm xu hướng dân chủ hóa nhà trường. Đây là xu thế chung của giáo dục thế giới hiện đại. Với việc đưa phương pháp dạy học theo nghiên cứu bài học vào dạy học, người học sẽ có cơ hội nhìn vấn đề từ nhiều góc độ, nhiều quan điểm nghiên cứu, tránh bị áp đặt một hướng nhìn duy nhất, và có cơ hội đưa ra giải pháp mang tính sáng tạo và dấu ấn cá nhân. Đây là tiền đề quan trọng cho việc dân chủ hóa nhà trường và giáo dục.
Phù hợp với đặc điểm người dạy. Dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học sẽ là “tự nhiên” đối với học sinh, hoạt động dạy học và nghiên cứu bài học được hòa quyện với nhau theo cùng một logic. Những kinh nghiệm nghiên cứu bài học được áp dụng tối đa cho giáo dục và điều này bảo đảm một sự thành công gần như chắc chắn đối với hầu hết mọi nhà giáo. 
Phù hợp với điều kiện không gian và thời gian của việc giáo dục trong xã hội hiện đại. Mạng thông tin toàn cầu được khai thác tối đa bởi học sinh để phục vụ việc tìm kiếm và giải quyết các vấn đề bởi lẽ người học phải tự đặt ra và giải quyết các vấn đề mà không thể trông chờ ở sự cung cấp của giáo viên. Dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học cũng cho phép sử dụng tối ưu quỹ thời gian của người học. Điều này phù hợp với xu thế chung của các chương trình giáo dục trên thế giới 
       Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học bảo đảm tốt nhất mục tiêu giáo dục trong khung cảnh thời đại mới như yêu cầu của Luật giáo dục: “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” và yêu cầu của Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam: “dạy người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh trong học tập”. Sự định hướng vào phương pháp dạy học này hoàn toàn phù hợp với định hướng của Nghị quyết 02-NQ/HNTW BCH TW Đảng khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. 
Qua phân tích trên, chúng ta có thể khảng định dạy học theo hướng nghiên cứu bài học là một định hướng đúng đắn của toàn ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Địa lí cúng là một bộ môn khoa học khó và dạy học theo hướng nghiên cứu bài học sẽ giúp người học hứng thú, đam mê, yêu thích môn học này hơn, dặc biệt là trong các trường Trung học phổ thông. Để phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu bài học đạt hiệu quả cao đối với môn địa lí, tôi đã có một số phương pháp và kĩ thuật dạy học giúp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
2.2. Thực trạng:
a. Đối với học sinh:- Học sinh trong thời đại công nghệ thông tin, nhưng phần lớn các em lại cập nhật những thông tin không bổ ích cho học tập.( Địa lí lại là môn học có tính thời sự rất cao). Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc tiếp thu kiến thức môn học.
- Thực tế đây là môn học khối C, số lượng nhành nghề cho các môn học khối C không nhiều nên số lượng học sinh lựa chọn môn Địa để học là rất ít.
- Có không ít học sinh học lệch, không quan tâm đến môn học còn xem nhẹ coi đây là môn phụ nên chủ yếu còn học vẹt, học để đối phó.
B .Đối với phụ huynh:
 - Đa số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học các môn khối để con em thi vào các trường đại học, từ đó có thái độ xem nhẹ bộ môn, không khuyến khích con em tham gia học tập bộ môn này.
 - Nhiều phụ huynh không biết gì về vai trò của các môn học nên để con em tự quyết định lựa chọn môn học khối dẫn đến tình trạng nhiều học sinh không lựa chon bộ môn địa lí.
c. Đối với bộ môn:
- Đây là bộ môn khó ( vừa có kiến thức tự nhiên vừa có kiến thức xã hội).
- Hình thức kiểm tra đánh giá chưa phù hợp.
- Chương trình thì kiến thức thực tiễn còn ít, chủ yếu là các đơn vị kiến thức học thuộc, từ đó gây ra sự nhàm chán cho người học.
d. Đối với giáo viên và nhà trường:
- Việc định hướng chuyên môn trong nhà trường vẫn tập trung nhiều vào các môn khối A.
- Phương tiện dạy học còn nhiều thiếu thốn, còn nhiều đồ dùng giáo viên phải tự làm.
- Tính thống nhất trong phương pháp dạy trong tổ chuyên môn của các nhà trường chưa cao, mạnh ai nấy làm. Đa số các giáo viên phải tự tìm tòi nghiên cứu, chưa có những định hướng cụ thể về mặt phương pháp cho một bài dạy, cho từng đối tượng học sinh nên dẫn đến sự lúng túng trong việc sử dụng các phương pháp, hiệu quả các giờ dạy chưa cao, không tạo sự hấp dẫn bộ môn đối với học sinh.
2. 3 Giải pháp( thực nghiệm):
- Trước những thực trạng đó bản thân giảng dạy môn địa lí tôi phải nêu cao vai trò trách nhiệm của mình trong môn học, luôn tìm tòi nghiên cứu học hỏi và sáng tạo.
- Đầu tư vào công tác soạn giảng nhiều hơn, chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị trước khi đến lớp.
- Muốn học sinh ham thích môn học trước hết giáo viên phải chuẩn bị một giáo án tốt, đủ các phương tiện cho môn học, tiết dạy phải đủ các bước, nội dung phải đảm bảo, môn học phải đủ tất cả các đối tượng học sinh ( khá, trung bình, yếu.). Sử dụng nhiều phương pháp, truyền đạt kiến thức cô đọng xúc tích dễ hiểu nhằm khuyến khích học sinh tự nghiên cứu nội dung bài học để khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ, tran, ảnh, các thông tin đại chúng, đồng thời dùng phương pháp tích hợp liên môn để các em có các nhìn sâu, tổng thể các đơn vị kiến thức của nhiều môn, có sự liên hệ địa phương từ đó giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, tạo hứng thú trong học tập bộ môn.
* Sử dụng các phương tiện:
- Quan sát lược đồ, bản đồ, mô hình ,mẫu vật , tranh ảnh băng hình
Học địa lí mở đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ, bản đồ vừa là phương tiện vừa là cuốn sách thứ 2 của bộ môn địa lí.Từ bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật ta có thể bồi dưỡng cho học sinh thế giới duy vật biện chứng, bồi dưỡng năng lực tư duy tự học tự nghiên cứu, sự ham thích bộ môn.
* Sử dụng nhiều phương pháp dạy học:
- Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tòi kiến thức của học sinh:
Sau khi quan sát cụ thể mẫu vật ,sơ đồ, lược đồ, tranh ảnhGiáo viên phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của học sinh bằng các tình huống có vấn đề để các em dự đoán giả thiết tranh luận giữa những ý kiến trái ngược.
- Phương pháp hoạt động nhóm:
Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa được giải quyết được cá nhân thì sẽ đưa ra nhóm để thảo luận tìm thống nhất chung.
Đây là phương pháp thể hiện rõ phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm và là phương pháp chủ đạo trong daỵ học theo hướng nghiên cứu bài học đang được thực nghiệm trong các trường Truong học phổ thông, đây là phương pháp đòi hỏi tính tự giác cao trao đổi ý kiến giữa học sinh với học sinh, giúp học sinh mở rộng kiến thức , tu duy khoa học, phát triển kĩ năng nói, giao tiếp, tranh luậnTuy nhiên thảo luận có nhiều cách ( cặp, nhóm, tổ ) muốn đạt hiệu quả cao đòi hỏi giáo viên phải có những yêu cầu cụ thể về thời gian, kiến thứcphải có khen thưởng, nhận xét những thành quả mỗi nhóm đã làm được.
- Phương pháp tích hợp, liên môn
Là phương pháp phối hợp những kiến thức có liên quan.
Ở mức độ thấp: lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học. 
 Ví dụ: thực hiện tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục pháp luật; giáo dục phòng chống tham nhũng; chú trọng tuyên truyền, giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; giáo dục an toàn giao thông,
Mức độ tích hợp cao: xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho HS vận dụng tổng hợp các kiến thức để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
 Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. 
 Ví dụ: Kiến thức Vật lí và công nghệ trong động cơ, máy phát điện; kiến thức Vật lí và Hóa học trong nguồn điện hóa học; kiến thức Lịch sử và Địa lí trong chủ quyền biển, đảo; kiến thức Ngữ văn và GDCD trong giáo dục đạo đức, lối sống
- Phương pháp kiểm tra đánh giá:
- Đây là hoạt động nhằm đánh giá kết quả hoạt động nhóm, cá nhân thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, bài tập điền từ vào ô trống, trò chơi, nhận biết mô hình, tư duy khiến thức từ bản đồ
- Ngoài ra có thể linh động đổi mới cách kiểm tra bài cũ đề tránh sự mệt mỏi trong, sau những tiết học của học sinh. Tùy lúc ,tùy trường hợp , tùy đối tượng, giáo viên có thể kiểm tra khác nhau.
VD: Bài: Thiên nhiên phân hóa đa dạng (Lớp 12). “ Khí hậu thay đổi từ Bắc Xuống Nam, từ Tây sang Đông”, yêu cầu học sinh tìm ra những câu hát có nội dung nói về sự thay đổi thời tiết theo chiều Bắc – Nam, Đông - Tây( giáo viên định hướng từ tiết học trước cho các em tìm hiểu từ nhà nội dung này)
Ví dụ: 
 “ Em nghe ngoài đó (ngoài Bắc) có gió mùa Đông Bắc
Em gửi trong này (trong Nam) chút nắng Hậu Giang”
“Trường Sơn đông, Trường Sơn tây
Bên nắng đốt, bên mưa bay”.
Qua đó giáo viên cho học sinh phân tích và làm rõ nội dung của những câu hát đó. Khi các em phân tích sự thay đổi của khí hậu từ Tây sang Đông thì giáo viên có thể đưa ra mô hình ngọn núi để học sinh khai thác, dẫn chứng :
 Mây-mưa
 Sườn Tây Sườn Đông
Từ những câu hát đó học sinh khắc sâu kiến thức, và có thể nhớ lâu, hiểu sâu thực tế, đồng thời giải thích hiệu quả, lô gíc khí hậu có sự thay đổi của khí hậu theo không gian theo không gian.
Bên cạnh đó sử dụng sơ đồ trong dạy địa lí đe

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_va_ki_thuat_day_hoc_theo_huong_nghien_cuu_b.doc