SKKN Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9, trường THCS Đông Minh - Đông Sơn
Cách đây hơn ba mươi năm khi nói về việc dạy và học môn Ngữ văn trong
nhà trường, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định tầm quan trọng trong
việc dạy và học nói chung là: “Rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng
tốt bộ óc của mình”. (Phạm Văn Đồng - Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn
diện). Rõ ràng càng ngày chúng ta càng thấy được tính đúng đắn của lời dạy trên.
Và để làm được điều đó trong quá trình dạy - học môn Ngữ văn người giáo viên
không chỉ là người cung cấp kiến thức đơn thuần mà quan trọng hơn còn rèn luyện
cho sinh kỹ năng tư duy, kỹ năng vận dung, làm bài.
Phân môn Tập làm văn trong nhà trường THCS nhằm cung cấp cho học sinh
kiến thức của sáu kiểu văn bản được giảng dạy theo trục đồng tâm: Tự sự, miêu tả,
biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản hành chính - công vụ. Vì thế, người
giáo viên dạy Văn cấp THCS không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của sáu
kiểu văn bản trên mà là rèn cho học sinh kỹ năng nhận biết và kỹ năng làm bài của
từng đơn vị kiến thức đó
1 MỤC LỤC Phần Nội dung Trang 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 I. MỞ ĐẦU 4. Phương pháp nghiên cứu 2 1. Cơ sở lí luận của vấn đề 3 2. Thực trạng của vấn đề 4-5-6 3. Các giải pháp thực hiện 3.1 Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận. 3.2 Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về kiểu bài. 3.3 Kỹ năng tích lũy kiến thức. 3.3.1 Kĩ năng tích lũy kiến thức thông qua việc đọc tác phẩm. 3.3.2 Kĩ năng ghi chép. 3.4 Rèn kĩ năng nhận thức đề. 3.4.1 Xác định đúng vấn đề nghị luận thông qua việc tìm ra sự giống và khác nhau giữa các đề. 3.4.2 Rèn kĩ năng nhận biết đúng yêu cầu lập luận. 3.4.2 Rèn kĩ năng nhận biết đúng yêu cầu phạm vi dẫn chứng. 3.5 Rèn kĩ năng lập dàn ý và trình bày ý, viết đoạn văn 7 7 7 8 8 9 9 10 10 11 12 - 16 II. NỘI DUNG 4. Hiệu quả của sáng kiến 17 III. KẾT LUẬN Kết luận và đề xuất. 18-19 2 I/ MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Cách đây hơn ba mươi năm khi nói về việc dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định tầm quan trọng trong việc dạy và học nói chung là: “Rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt bộ óc của mình”. (Phạm Văn Đồng - Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện). Rõ ràng càng ngày chúng ta càng thấy được tính đúng đắn của lời dạy trên. Và để làm được điều đó trong quá trình dạy - học môn Ngữ văn người giáo viên không chỉ là người cung cấp kiến thức đơn thuần mà quan trọng hơn còn rèn luyện cho sinh kỹ năng tư duy, kỹ năng vận dung, làm bài. Phân môn Tập làm văn trong nhà trường THCS nhằm cung cấp cho học sinh kiến thức của sáu kiểu văn bản được giảng dạy theo trục đồng tâm: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản hành chính - công vụ. Vì thế, người giáo viên dạy Văn cấp THCS không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của sáu kiểu văn bản trên mà là rèn cho học sinh kỹ năng nhận biết và kỹ năng làm bài của từng đơn vị kiến thức đó. Như chúng ta đã biết, trong các kiểu văn bản được học ở cấp THCS có ba kiểu văn bản quan trọng và cũng là kiểu văn bản mới và khó đối với học sinh: Tự sự; Thuyết minh; Nghị luận. Qua thực tế giảng dạy thì việc dạy kiểu Văn nghị luận ở giáo viên, việc học và làm bài văn nghị luận ở học sinh được xem là khó nhất bởi văn nghị luận không chỉ đòi hỏi giáo viên nắm vững kiến thức của kiểu bài, kiến thức của vấn đề nghị luận mà còn đòi hỏi người dạy cũng như người học phải có được tư duy mạch lạc, logíc. Trong đó việc dạy tiết “ Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” được xem là một trong những tiết học “ trọng tâm ” trong việc dạy và học phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ văn 9 bởi việc nắm vững kiến thức về tiết học này không chỉ giúp cho học sinh phân biệt với các kiểu bài nghị luận khác mà còn có được cái nhìn toàn diện về các tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), học sinh biết cách nhận xét, đánh giá về nó và cũng tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập môn Ngữ văn ở các cấp cao hơn. Trong thực tế viêc dạy vấn đề này ở trường THCS Đông Minh, học sinh lớp 9 khi gặp kiểu bài này cũng thường khó khăn lúng túng. Kinh nghiệm của giáo viên trong tổ chưa nhiều, cần được trao đổi, rút kinh nghiệm. Trước tình hình đó, tôi mạnh dạn đưa ra 3 đề tài “ Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9, trường THCS Đông Minh - Đông Sơn” 2/ Mục đích nghiên cứu: Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là một dạng bài trọng điểm trong chương trình Ngữ văn 9. Để viết tốt được kiểu bài này học sinh cần vận dụng nhiều kĩ năng, nhiều thao tác và ngược lại kiểu bài này cũng tác động nhiều đến sự phát triển tâm hồn, tình cảm cũng như năng khiếu văn chương cho học sinh. Tuy nhiên đây là dạng bài khó, khi viết bài học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Bản thân người dạy nếu không có sự tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn thì việc hướng dẫn học sinh làm bài cũng gặp nhiều hạn chế. Vì thế, mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là để trau dồi kiến thức, tương tác với đồng nghiệp và từ đó giúp học sinh lớp 9 trường Trung học cơ sở Đông Minh hiểu và viết tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). 3/ Đối tượng nghiên cứu: Ở sáng kiến này, tôi tập trung tìm hiểu, nghiên cứu nhằm rèn cho học sinh kĩ năng nắm vững kiến thức về văn nghị luận cũng như kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích); kỹ năng tích lũy kiến thức, nhận thức đề và kỹ năng lập dàn ý và trình bày ý. 4/ Phương pháp nghiên cứu: Để sáng kiến kinh nghiệm đạt hiệu quả, tôi sử dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp thống kê, xử lý số liệu; phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. II/ NỘI DUNG 1/ Cơ sở lí luận: Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói riêng là một kiểu bài nghị luận văn học có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp chín. Thông qua việc đọc và học một tác phẩm văn học học sinh cũng từng bước được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giảng về tác phẩm..., đó là một thuận lợi. Nhưng mặt khác cũng cần nắm vững yêu cầu và mức độ cần đạt của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc doạn trích) để không đồng nhất yêu cầu và mức độ phân tích tác phẩm trong chương 4 trình THCS nói chung và khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc doạn trích) lớp 9 nói riêng. Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩmđược người viết phát hiện và khái quát. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm. ( SGK – NV 9 – Tập 2). Giáo sư Lê Trí Viễn cũng có lời nhắn nhủ: “ Dạy văn lấy cảm làm đầu”. Người giáo viên dạy cho học sinh phương pháp làm một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) không thể nghèo nàn về cảm xúc. Bởi những trang truyện, những số phận của các nhân vật trong truyện đều có cuộc đời riêng, có tư tưởng, tình cảm, nội tâm...phong phú và đa dạng. Vì vậy trong quá trình hướng dẫn học sinh trình bày cảm nhận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề trong tác phẩm truyện cần phải xuất phát từ những rung cảm chân thật, thẩm mĩ. Đồng thời học sinh cũng phải biết kết hợp các phép lập luận đã học. Ngoài ra giáo viên cần chú ý phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh, kích thích, nuôi dưỡng, phát triển ở học sinh những nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng nhân vật văn học, ngôn ngữ đối thọai, độc thoại....Muốn vậy, giáo viên cần phải rèn luyện cho học sinh kĩ năng nắm vững kiến thức về văn nghị luận cũng như kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích); kỹ năng tích lũy kiến thức, nhận thức đề và kỹ năng lập dàn ý và trình bày ý. Trước những yêu cầu trên tôi quyết định chọn sáng kiến kinh nghiệm này. 2/ Thực trạng của vấn đề: Trong Ngữ văn 9 học sinh chỉ được học 3 tiết (tiết 118, 119,120 - theo Phân phối chương trình) về kiểu bài “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích)”, mặc dù số tiết ít nhưng cùng với kiểu bài Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiến thức trọng tâm nhất trong phân môn Tập làm văn 9. Hơn nữa, để học và nắm vững kiến thức về kiểu bài này học sinh phải chắc kiến thức về nghị luận từ học kì II năm lớp 7. 5 Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn THCS của bản thân, đặc biệt là trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 9 tôi nhận thấy việc dạy và học tiết “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích”) thường gặp một số vướng mắc sau: *Về phía giáo viên: - Qua nhiều năm theo dõi phong trào thi đua dạy giỏi các cấp và dạy tốt ở trường, ta thấy giáo viên thường chỉ đăng kí dạy phân môn Giảng văn và Tiếng Việt. Bởi dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài “ Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích)” đòi hỏi người giáo viên không chỉ nắm vững kiến thức lí thuyết của tiết học, tức là nắm vững “bản chất” của kiểu bài, mà còn phải vững kiến thức về các tác phẩm truyện. Không ít giờ dạy sa vào phân tích các văn bản mẫu trong sách giáo khoa mà không rút ra cách nhận biết và cách làm kiểu bài này như thế nào. - Nhiều tiết dạy còn mang tính chất áp đặt về lí thuyết, chưa thực sự hướng dẫn học sinh luyện tập, rèn kỹ năng làm bài. Nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc cung cấp dàn bài chi tiết, học sinh chỉ việc dựa sẵn vào dàn ý đó mà viết bài, như vậy giáo viên không phát huy được tính tư duy của học sinh, các bài viết giống nhau và không có cảm xúc chân thực, thiết tha với vấn đề nghị luận. *Về phía học sinh: - Học sinh không xác định được dạng bài, kiểu bài làm văn nghị luận văn học. Trong những năm gần đây, học sinh khối lớp 9 viết bài Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng. Rất ít học sinh yếu, kém, trung bình phân biệt được sự khác nhau giữa văn nghị luận với các kiểu văn bản khác .Vì thế khi có những yêu cầu khác nhau về kiểu bài nhưng lại cùng một tác phẩm cụ thể thì đa số học sinh làmgiống nhau. Học sinh viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy không cần biết có đúng yêu cầu hay không. Có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà không hiểu được học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì. - Ví dụ: Đề bài: Tình cảm cha con qua tryện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Em Lê Lệnh Đạt lớp 9B (Năm học 2016 - 2017) viết: “ Tình cảm gia đình là tình cảm quan trọng nhất đối với mọi người. Em cũng có một gia đình hạnh phúc. Bố mẹ em rất yêu thương em như ông Sáu yêu thương bé Thu. Vì thế em rất yêu quý gia đình.” - Có nhiều học sinh khi phân biệt được sự khác nhau giữa các kiểu bài nhưng lại chưa xác định đúng, đầy đủ vấn đề nghị luận. Khi nghị luận về tác phẩm truyện học sinh thường sa vào kể lể, tóm tắt tác phẩm. 6 - Việc xây dựng hệ thống luận điểm, sắp xếp hệ thống luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận cũng là một khâu quan trọng nhưng không ít học sinh vướng mắc. - Ví dụ: Cũng với đề bài: Tình cảm cha con qua tryện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ở lớp 9B (Năm học 2016 - 2017) với 30 bài làm thì có tới 20 bài viết chỉ tập trung phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu, 10 bài viết còn lại hiểu được vấn đề nghị luận: phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu và ngược lại nhưng lại vấp phải việc sử dụng trùng dẫn chứng, ý lộn xộn. Trong thực tế giảng dạy và chấm bài của học sinh khi viết bài tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, các em thường kể lại tóm tắt nội dung của tác phẩm, không thật sự rung động trước tác phẩm dẫn đến cảm xúc khô cứng, sáo rỗng, phương pháp nghị luận thì lúng túng và máy móc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, Do đó điểm của phần văn nghị luận thường thấp hơn các kiểu văn bản: Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh ...mà các em đã được học. Thực tế, do thời lượng ít (chỉ có 03 tiết) cho kiểu bài này nên không có nhiều thời gian rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh, dẫn đến kỹ năng làm bài của học sinh hạn chế. Vì vậy khi làm bài, cũng như các kiểu bài khác, đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình, nên thường lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Do đó việc nâng cao, mở rộng, luyện tập rèn luyện cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) cho các em là thực sự cần thiết. Kết quả chấm bài Tập làm văn số 6 ở lớp 9A, 9B tại Trường THCS Đông Minh trong năm học 2016 - 2017 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau: KẾT QUẢ XẾP LOẠI Giỏi Khá Trung bình Yếu Lớp Tổng số học sinh TS % TS % TS % TS % 9A 30 3 10 7 24 21 70 0 0 9B 30 0 0 2 6.7 18 60 10 33.3 Những bài viết có điểm yếu các em thường mắc các lỗi sau: - Không xác định đúng vấn đề nghị luận. - Bài viết lan man, không đủ luận điểm. - Ngôn ngữ vụng về, sa vào kể lể. 7 Trên đây là những lí do thôi thúc tôi tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm trong việc dạy văn nghị luận nói chung, kiểu bài Nghị luận về một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) nói riêng. Trong nhiều năm giảng dạy tôi đã tìm ra những giải pháp, biện pháp và đã mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận về kiểu bài: “ Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9, trường THCS Đông Minh. 3/ Giải pháp thực hiện: 3.1. Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận: - Thực ra kiến thức về văn nghị luận các em đã được học từ năm lớp 7 nhưng để học sinh nắm vững kiến thức của kiểu văn bản là khâu quan trọng trong việc học và viết kiểu bài nghị luận văn học. Người dạy học sinh lớp 9 cần hướng dẫn các em sẽ phải nắm vững những đặc điểm sau: a. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức văn nghị luận: Mỗi đề bài sẽ đưa ra một vấn đề nghị luận, việc của học sinh là đưa ra các ý lớn (luận điểm) và cá ý nhỏ (luận cứ) để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Các luận điểm, luận cứ phải do học sinh tìm tòi, phát hiện nhưng nó phải xuất phát từ các tác phẩm văn học. b. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm văn nghị luận: - Tính thuyết phục cao: Khi học sinh đưa ra được hệ thống luận điểm, luận cứ, dẫn chứng phù hợp, ngôn ngữ sắc sảo thì người đọc sẽ bị thuyết phục hoàn toàn trước vấn đề nghị luận. - Tính logic: Để người đọc bị thuyết phục người viết rõ ràng phải có tư duy logic, rõ ràng, mạch lạc. Mặc dù các kiểu văn bản khác cũng đòi hỏi điều này nhưng sự rõ ràng, liên kết ý trong văn nghị luận đòi hỏi cao nhất. Sự tư duy hời hợt không có tính thống nhất, biện minh sẽ không phù hợp trong khi làm văn nghị luận. 3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về kiểu bài: Khi nắm vững kiến thức về văn nghị luận giáo viên tiếp tục hướng dẫn các em nắm vững kiến thức về kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Thực tế trong chương trình học các em học sinh đã được học tiết lí thuyết về kiểu bài này ở tiết 118 ( Ngữ văn 9 - Tập 2) nhưng muốn học sinh có kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện tốt giáo viên phải khắc sâu hai vấn đề sau: - Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận một tác phẩm truyện là trình bày 8 những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. - Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. 3.3. Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức: 3.3.1. Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức thông qua việc đọc tác phẩm: Nghị luận văn học là kiểu bài văn hướng tới các vấn đề đặt ra trong các tác phẩm văn học: nội dung, nghệ thuật, hoặc các khía cạnh khác như tình huống, diễn biến tâm lí của nhân vật...trong bài viết thể hiện rõ năng lực cảm thụ văn học của người viết. Cho nên người viết phải hiểu biết kĩ về tác phẩm văn học đó: từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác đến nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. a/ Đối với các tác phẩm văn học được học trong chương trình: Giáo viên cần hướng dẫn các em cách đọc hiểu văn bản. Hình thành kĩ năng đọc cho học sinh, tạo cho các em có thói quen đọc sách, hướng dẫn các em đọc theo quy trình: Đọc thông suốt toàn văn bản → đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả → đọc hiểu để thưởng thức văn học. - Đọc thông suốt toàn văn bản: Để có ấn tượng toàn vẹn về văn bản. Phải đọc tiểu dẫn để biết được những tri thức thiết yếu về tác giả, tác phẩm. Đối với tác phẩm văn xuôi phải nhớ được cốt truyện ( học sinh phải tóm tắt được), hệ thống các chi tiết có liên quan đến nhân vật chính. Cần chú ý đến mạch văn, chất văn của văn bản, phát hiện những điểm đặc sắc, thú vị...... - Đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả: Nhà văn sáng tác tác phẩm văn học bao giờ cũng thể hiện tư tưởng, bộc lộ tình cảm không chỉ của cá nhân họ về cuộc ðời, con ngýời mà cũng là của tầng lớp, giai cấp, thời ðại mà các nhà vãn nhý là một ðại diện. Ví dụ: Khi đọc tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa đã thể hiện cái nhìn, cách đánh giá của cả thế hệ nhà văn với những đóng góp thầm lặng nhưng không kém phần sôi nổi nhiệt huyết của người dân miền Bắc trong công cuộc xây dựng xã hội mới. - Đọc hiểu để thưởng thức văn học: Người đọc tiếp nhận tư tưởng, tình cảm của người viết gửi gắm vào ngôn từ, hình tượng đó, tìm ra tầng hàm nghĩa, nhận ra tín hiệu mà người viết muốn nói, quan niệm về nhân sinh, hoài bão, ước mơ... giúp cho người đọc hiểu mình, hiểu đời, chia sẻ với sự xúc động, niềm say mê.... của tác giả. 9 Ví dụ: Khi đọc truyện ngắn “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu giúp người đọc nhận ra triết lí mà tác giả muốn gửi gắm đó là: Ở đời có rất nhiều sự “vòng vèo” và “chùng chình” điều quan trọng đối với mỗi con người là làm sao tránh được sự “ vòng vèo” và “chùng chình” đó; hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc ở ngay xung quanh chúng ta... b/ Đối với các tác phẩm không dạy trong chương trình: Cần khuyến khích các em đọc và nắm được nội dung của tác phẩm. Giới thiệu, kể cho các em một số tác phẩm được giải thưởng, các truyện ngắn hay qua các năm để các em tìm đọc. 3.3.2.Hướng dẫn, khuyến khích học sinh khi phải có thói quen ghi chép: Ví dụ: Sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, học sinh có thể ghi chép: - Tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. - Tóm tắt tác phẩm. - Nội dung chính. - Những biện phấp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm (đoạn trích). - Ghi lại những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của bản thân sau khi đọc về tác phẩm, về nhân vật hoặc một chi tiết mà bản thân tâm đắc nhất trong tác phẩm. Giáo viên yêu cầu học sinh chép riêng ra một quyển sổ nhỏ và kiểm tra việc nghi chép và nghi nhớ thường xuyên để tạo thành thói quen ở học sinh. 3.4. Rèn kỹ năng nhận thức đề: Một đề bài Tập làm văn cũng được xem là một bài toán nghệ thuật ngôn từ. Bởi bao giờ trong một đề bài Tập làm văn cũng có những yêu cầu bắt buộc mà người thực hiện đề bài phải tìm ra phương pháp giải. Vì thế, bước phân tích đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “ dẫn đường, chỉ lối” cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, không làm sáng tỏ vấn đề nghị luận mà còn bị lệch đề, lạc đề. Chính vì thế mà người giáo viên hướng dẫn học sinh phải biết phân tích kĩ đề. Một đề bài văn nghị luận về tác phẩm truyện không bao giờ chỉ có một dạng đề đơn điệu. Để học sinh xác định đúng vấn đề nghi luận và hình thức lập luận người dạy rèn cho học sinh các kỹ năng sau: 3.4.1. Xác định đúng vấn đề nghị luận thông qua việc tìm sự giống và khác nhau giữa các đề: Ví dụ: Tôi cho các đề có liên quan đến tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ: 10 Đề 1: Suy nghĩ của em về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 2: Giá trị nhân đạo là giá trị lớn nhất trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Hãy phân tích để làm sáng tỏ. Đề 3: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xư
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ren_luyen_ki_nang_lam_bai_nghi_luan_ve_mot_tac_pham_tru.pdf