SKKN Rèn luyện kĩ năng giúp học sinh lớp 12 làm tốt phần đọc – hiểu văn bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
Trong bối cảnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ và có sự đột phá thật sự. Một trong những vấn đề đó là đổi mới kiểm tra, đánh giá năng lực đọc – hiểu của học sinh.
Thực tế, năm học 2014 - 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những bước tiến mới trong kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong một kì thi chung – THPT Quốc gia. Đề thi môn Ngữ văn có cấu trúc gồm 2 phần: Phần đọc – hiểu và phần làm văn. Trong đó, đọc – hiểu là một hướng tiếp cận mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Thực ra việc đọc - hiểu là việc thường làm trong quá trình học tập môn Ngữ văn, còn cái mới ở đây là mới đưa vào đề thi thay cho câu hỏi 2 điểm từ trước tới nay. Tuy vậy, phần này trong đề thi vẫn khiến học sinh gặp không ít lúng túng.
Đọc - hiểu văn bản là một trong hai phần bắt buộc của đề thi THPT Quốc gia. Tuy chiếm phần điểm ít hơn nhưng lại rất quan trọng, bởi nó quyết định nhiều đến kết quả học tập, quyết định nhiều đến việc chọn lựa trường của học sinh. Hơn nữa, để đạt được mức điểm 05 trên thang điểm 10 không phải là điều dễ đối với học sinh trung bình. Có thể nói, phần đọc - hiểu chính là phần giúp các em "gỡ điểm" cho bài thi của mình. Vì vậy, việc ôn luyện và chuẩn bị kỹ càng cho phần này càng trở nên cấp thiết hơn nữa.
Đối với học sinh trường THPT Thọ Xuân 4, đây cũng là phần kiến thức học sinh có nhiều thiếu sót, thậm chí nhiều kiến thức còn có vẻ "mới mẻ" với các em.
Tiếp cận và giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là trong việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh, bản thân tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh là điều hết sức cấp thiết. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng mà người dạy văn cần để tâm khai thác khi tiếp cận văn bản theo hướng tư duy mở của cách dạy học hiện đại.
MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2 3 3 3 2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3 3 4 2.3. Giải pháp rèn luyện kĩ năng giúp học sinh lớp 12 làm tốt phần đọc – hiểu văn bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn 2.3.1. Dạng biểu hiện và các bước tìm hiểu đề 2.3.2. Cách thức làm bài 2.3.3. Rèn kĩ năng làm các câu hỏi ở mức độ nhận biết 2.3.4. Rèn kĩ năng làm các câu hỏi ở mức độ thông hiểu 2.3.5. Rèn kĩ năng làm các câu hỏi ở mức độ vận dụng thấp 2.3.6. Rèn kĩ năng làm các câu hỏi ở mức độ vận dụng cao 5 5 6 6 13 14 16 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị Tài liệu tham khảo Danh mục các đề tài SKKN mà tác giả đã được Hội đồng Cấp phòng GD&ĐT, Cấp Sở GD&ĐT và các cấp cao hơn đánh giá đạt từ loại C trở lên. 17 18 18 19 20 21 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong bối cảnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ và có sự đột phá thật sự. Một trong những vấn đề đó là đổi mới kiểm tra, đánh giá năng lực đọc – hiểu của học sinh. Thực tế, năm học 2014 - 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những bước tiến mới trong kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong một kì thi chung – THPT Quốc gia. Đề thi môn Ngữ văn có cấu trúc gồm 2 phần: Phần đọc – hiểu và phần làm văn. Trong đó, đọc – hiểu là một hướng tiếp cận mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Thực ra việc đọc - hiểu là việc thường làm trong quá trình học tập môn Ngữ văn, còn cái mới ở đây là mới đưa vào đề thi thay cho câu hỏi 2 điểm từ trước tới nay. Tuy vậy, phần này trong đề thi vẫn khiến học sinh gặp không ít lúng túng. Đọc - hiểu văn bản là một trong hai phần bắt buộc của đề thi THPT Quốc gia. Tuy chiếm phần điểm ít hơn nhưng lại rất quan trọng, bởi nó quyết định nhiều đến kết quả học tập, quyết định nhiều đến việc chọn lựa trường của học sinh. Hơn nữa, để đạt được mức điểm 05 trên thang điểm 10 không phải là điều dễ đối với học sinh trung bình. Có thể nói, phần đọc - hiểu chính là phần giúp các em "gỡ điểm" cho bài thi của mình. Vì vậy, việc ôn luyện và chuẩn bị kỹ càng cho phần này càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Đối với học sinh trường THPT Thọ Xuân 4, đây cũng là phần kiến thức học sinh có nhiều thiếu sót, thậm chí nhiều kiến thức còn có vẻ "mới mẻ" với các em. Tiếp cận và giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là trong việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh, bản thân tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh là điều hết sức cấp thiết. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng mà người dạy văn cần để tâm khai thác khi tiếp cận văn bản theo hướng tư duy mở của cách dạy học hiện đại. Tuy nhiên, không ít thầy và trò còn hoang mang, chưa thực sự tự tin khi làm phần bài này. Trong khi đó, nội dung kiến thức để làm dạng đề này lại nằm rải rác ở chương trình và phụ thuộc rất lớn vào khả năng đọc – hiểu của học sinh, chưa có một tài liệu chính thống nào cung cấp phương pháp, kĩ năng và xâu chuỗi vấn đề lại để hướng dẫn học sinh làm dạng bài này một cách có hệ thống. Nhiều học sinh còn chưa xác định, tổng hợp đầy đủ và chính xác phạm vi, nội dung, phương pháp ôn tập, vì vậy trả lời còn thiếu ý hoặc sai sót, nhất là học sinh lớp 12. Đó là những lí do tôi tâm huyết và muốn đi sâu vào đề tài: Rèn luyện kĩ năng giúp học sinh lớp 12 làm tốt phần đọc – hiểu văn bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn. 1.2. Mục đích nghiên cứu Căn cứ vào sự thay đổi trong cấu trúc đề thi môn Ngữ văn năm học 2016 - 2017 của phần đọc – hiểu mà Bộ GD và ĐT đã 3 lần công bố đề minh họa, thử nghiệm và tham khảo. Đồng thời xét tình hình thực tế của học sinh giảng dạy, đề tài hướng về mục đích hệ thống hóa một cách bài bản các kiến thức đọc – hiểu qua 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Hướng dẫn học sinh các bước: tìm hiểu đề, cách trình bày và xác định câu trả lời chính xác, hiệu quả nhất. Đặc biệt, học sinh biết bày tỏ quan điểm, thái độ hoặc liên hệ thực tế đời sống. Đồng thời viết được đoạn văn hoàn chỉnh về hình thức và nội dung (đối với những câu hỏi yêu cầu trả lời bằng một đoạn văn). Qua đó, học sinh sẽ được trang bị những kiến thức cũng như kỹ năng cơ bản nhất giúp các em tự tin, có kĩ năng và đạt kết quả tốt nhất ở phần đọc - hiểu nói riêng cũng như cả bài thi nói chung trong kỳ thi THPT Quốc gia . 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng học sinh mà tôi tiến hành rèn luyện là những học sinh do bản thân trực tiếp giảng dạy. Bao gồm: 02 lớp: Lớp 12A1 - 42 học sinh, Lớp 12A5 - 41 học sinh. Tổng số: 83 học sinh. Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về kĩ năng làm phần đọc – hiểu văn bản qua các mức độ: - Mức độ nhận biết: Kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt; các phong cách chức năng ngôn ngữ; các biện pháp nghệ thuật; thao tác lập luận; hình thức ngôn ngữ; phương thức trần thuật; các phép liên kết hình thức; kiểu câu; câu nêu chủ đề; các lỗi trong sử dụng tiếng Việt - Mức độ thông hiểu: Kĩ năng xác định nội dung chính, ý nghĩa của một văn bản, hoặc của một câu, một đoạn nào đó, đặt được nhan đề cho văn bản. - Mức độ vận dụng thấp: Kĩ năng nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản. - Mức độ vận dụng cao: Kĩ năng bày tỏ quan điểm, thái độ hoặc liên hệ thực tế đời sống và trình bày trong một đoạn văn ngắn nhưng hoàn chỉnh. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp xây dựng cơ sở lí thuyết: Tìm hiểu, tham khảo các tài liệu liên quan đến đề tài qua mạng internet, sách giáo khoa, tạp chí văn học - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Trực tiếp trao đổi với các đồng nghiệp trong buổi họp tổ chuyên môn. Đồng thời lắng nghe ý kiến của học sinh phản ánh về thực tế khi làm phần đọc – hiểu văn bản. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Cho học sinh làm bài kiểm tra có phần đọc – hiểu, từ đó thống kê để nắm được kết quả thực tế trước và sau khi thực nghiệm. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Khái niệm - Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.[8] - Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào? [8] - Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng - sai về logic, nghĩa là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt. 2.1.2. Mục đích - Đọc là hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa. Bản thân việc đọc đã có nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng giọng đúng chỗ là một trình độ. Bước hai là đọc kỹ, đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ lại là một trình độ khác. Bước thứ ba là đọc hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một mức rất cao. [4] - Nhưng đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó đã là đọc sáng tạo. Trong các khâu đọc đó, đọc hiểu là khâu cơ bản nhất, nó bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu nghĩa toàn bài. Có hiểu đúng thì mới nói chuyện hiểu sáng tạo. Muốn hiểu đúng đầu tiên phải tôn trọng tính chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết, đích của văn bản. - Trong văn bản, đọc - hiểu là phải thấy được: + Nội dung của văn bản. + Mối quan hệ ý nghĩa của văn bản do tác giả tổ chức và xây dựng. + Ý đồ, mục đích? + Thấy được tư tưởng của tác giả gửi gắm trong tác phẩm. + Giá trị đặc sắc của các yếu tố nghệ thuật. + Ý nghĩa của từ ngữ được dùng trong cấu trúc văn bản. + Thể loại của văn bản? Hình tượng nghệ thuật? 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trong một thời gian rất dài ở nước ta môn Ngữ văn được gọi là “Giảng văn” và đó chủ yếu là công việc của thầy. Rõ ràng là vị trí của trò trong môn học văn hoàn toàn là một vị trí bị động, làm cho học sinh không có dịp trực tiếp đối diện với văn bản, do đó không có thói quen tự mình khám phá văn bản và đánh mất luôn năng lực tự học của họ. Xuất phát từ xu hướng đổi mới: Từ kiểm tra đánh giá sự ghi nhớ những kiến thức (kiến thức do giáo viên đọc hộ, hiểu hộ, cảm hộ) chuyển sang kiển tra đánh giá năng lực đọc – hiểu của học sinh (tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản). Đây cũng là hướng tiếp cận với xu thế chung của thế giới. Năm học 2013 – 2014, trong cả kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi Đại học, Cao đẳng đã xuất hiện phần đọc – hiểu trong đề thi môn Ngữ văn. Dạng bài này chiếm 3/10 điểm trong đề thi tốt nghiệp, và đề thi Đại học, Cao đẳng chiếm 2/10 điểm. Từ năm học 2014 – 2015, Bộ GD và ĐT chính thức công bố phương án tổ chức một kì thi chung - THPT Quốc gia. Trong đề thi môn Ngữ văn, phần đọc – hiểu chiếm 3/10 điểm, đó là một bước tiến mới mang tính chất đột phá trong đổi mới giáo dục. Là một người trực tiếp giảng dạy ở một trường vùng bán sơn địa, tất cả các em học sinh ở vùng nông thôn, trình độ hạn chế, khả năng nắm bắt kiến thức, đặc biệt là kiến thức tiếng Việt, cũng như kỹ năng xử lý đề chậm. Bản thân tôi cũng luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho đối tượng học sinh của mình. Khi chưa dành nhiều thời gian hướng dẫn học sinh rèn luyện năng lực đọc – hiểu trong giờ dạy học: - Tiết học trầm, học sinh ít hứng thú tìm hiểu bài, ngại làm bài tập. - Giáo viên phải làm việc nhiều hơn. Học sinh hoạt động ít hơn, kiến thức học sinh tự tìm hiểu nhiều chỗ còn sai sót, nhầm lẫn. Tôi đã tiến hành kiểm tra năng lực đọc – hiểu của học sinh trước khi tiến hành rèn luyện kĩ năng, kết quả như sau: Lớp Số bài Điểm 0-4 Điểm 5-6 Điểm 7-10 Số bài % Số bài % Số bài % 12A1 42 25 59.52 13 30.95 4 9.53 12A5 41 19 46.34 17 41.46 5 12.2 Từ thực tế kết quả thực nghiệm, sự thay đổi của đề thi cùng những hiểu biết về thực trạng chung của việc rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản, với mong muốn trang bị cho các em những kiến thức cũng như kỹ năng về phần này một cách hệ thống, bài bản giúp các em đạt kết quả tốt nhất trong Phần đọc - hiểu của kỳ thi môn Ngữ văn, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Rèn luyện kĩ năng giúp học sinh lớp 12 làm tốt phần đọc – hiểu văn bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn. 2.3. Giải pháp rèn luyện kĩ năng giúp học sinh lớp 12 làm tốt phần đọc – hiểu văn bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn 2.3.1. Dạng biểu hiện và các bước tìm hiểu đề - Dạng biểu hiện của đề: Đề bài đánh giá năng lực đọc – hiểu của học sinh có cấu trúc gồm 2 phần: + Phần 1: Đề đưa ra một văn bản: Văn bản văn học hoặc văn bản nhật dụng, văn xuôi hoặc thơ, có thể là một văn bản hoàn chỉnh hoặc một đoạn trích. Xu hướng sẽ là một văn bản mới nằm ngoài sách giáo khoa. + Phần 2: Đề đưa ra các câu hỏi ở 4 mức độ nhận thức từ thấp đến cao: Nhận biết – thông hiểu – vận dụng thấp – vận dụng cao. - Các bước tìm hiểu đề + Bước 1: Đọc kĩ văn bản (nội dung và xuất xứ của văn bản) + Bước 2: Đọc thật kĩ các câu hỏi, xác định đúng nội dung câu hỏi, gạch chân những từ ngữ quan trọng. + Bước 3: Xác định nội dung câu trả lời. 2.3.2. Cách thức làm bài - Học sinh cần trả lời trực tiếp câu hỏi: Hỏi gì - đáp nấy chính là chìa khóa để làm dạng câu hỏi này. Tránh lan man, dài dòng, không cần mở bài, thân bài, kết bài. Câu trả lời cần đảm bảo 3 yêu cầu: Ngắn gọn, chính xác và đầy đủ. - Nên dùng kí hiệu thống nhất như trong đề thi. - Trình bày sạch đẹp. - Một văn bản có thể có nhiều phương thức biểu đạt, thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ, sử dụng nhiều thao tác lập luận. Tuy nhiên, trường hợp đề yêu cầu xác định phương thức biểu đạt, phong cách, thao tác chính hoặc chủ yếu thì học sinh chỉ được nêu một phương thức, một phong cách, một thao tác lập luận được sử dụng nhiều nhất trong văn bản. - Trường hợp đề yêu cầu nêu quan điểm của bản thân về vấn đề liên quan đến văn bản, thì học sinh phải nêu quan điểm riêng của bản thân, không nhắc lại quan điểm của tác giả đã nêu trong văn bản. - Nếu đề yêu cầu rút ra bài học cho bản thân, học sinh cần bám sát vào nội dung văn bản để đưa ra bài học phù hợp nhất. Đồng thời cần lí giải được tại sao đó là bài học ý nghĩa nhất. 2.3.3. Rèn kĩ năng làm các câu hỏi ở mức độ nhận biết 2.3.3.1. Yêu cầu nhận diện các phương thức biểu đạt STT Phương thức biểu đạt Mục đích giao tiếp Tự sự - Trình bày, kể lại, thuật lại diễn biến của sự việc. - Đặc trưng: Có cốt truyện, có nhân vật tự sự, sự việc, tư tưởng, chủ đề và có ngôi kể thích hợp. Miêu tả - Tái hiện trạng thái sự vật, con người. - Làm cho người đọc, người nghe, người xem có thể thấy sự vật, hiện tượng, con người (Đặc biệt là thế giới nội tâm) như đang hiện ra trước mắt qua ngôn ngữ miêu tả. Biểu cảm - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh. Nghị luận - Được dùng để bàn bạc phải/trái, đúng/sai, nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết. Thuyết minh - Cung cấp, giới thiệu, giảng giải những tri thức về đặc điểm, tính chất, phương pháp của sự vật, hiện tượng nào đó cho người đọc , người nghe. Hành chính – công vụ Trình bày ý muốn, quyết định nào đó, thể hiện quyền hạn, trách nhiệm giữa người với người. - Lưu ý: Để xác định chính xác phương thức biểu đạt, em nên lưu ý: + Căn cứ vào mục đích giao tiếp trong bảng trên để xác định. + Phương thức nghị luận (sử dụng nhiều lập luận, lí lẽ, dẫn chứng; nhiều từ khen chê, bộc lộ thái độ) chủ yếu xuất hiện trong văn bản nghị luận, phong cách chính luận và thao tác bình luận. + Các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự sự thường chủ yếu xuất hiện trong các văn bản nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca. + Phương thức thuyết minh thường sử dụng trong văn bản khoa học. + Phương thức hành chính – công vụ sẽ biểu đạt trong văn bản hành chính. + Trường hợp đề yêu cầu nhận diện phương thức biểu đạt chính (chủ yếu) thì chỉ được nêu một phương thức được sử dụng nhiều nhất và là mục đích chính trong văn bản. + Khi đề yêu cầu xác định các phương thức biểu đạt trong văn bản và cho biết hiệu quả của việc kết hợp các phương thức đó: Học sinh lần lượt xác định các phương thức trong văn bản. Sau đó ghép phần mục đích giao tiếp của các phương thức đó trong bảng trên với nhau để chỉ ra hiệu quả của việc kết hợp. Chẳng hạn: Văn bản sử dụng phương thức miêu tả và biểu cảm thì tác dụng của việc kết hợp hai phương thức đó là: giúp tác giả vừa tái hiện được trạng thái của sự vật, vừa bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình 2.3.3.2. Yêu cầu nhận diện phong cách chức năng ngôn ngữ STT PCNN Khái niệm, mục đích Đặc trưng Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt - Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hằng ngày, mang tính tự nhiên, thoải mái và sinh động, giàu cảm xúc, ít trau chuốt. - Mục đích: Dùng để thông tin, trao đổi ý nghĩ, tình cảm.đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống. - Nhận biết: + Gồm các dạng: Chuyện trò, nhật kí, thư từ. + Ngôn ngữ: Khẩu ngữ, bình dị, suồng sã, địa phương. - Tính cụ thể - Tính cảm xúc - Tính cá thể Phong cách ngôn ngữ báo chí - Là ngôn ngữ được dùng trong lĩnh vực truyền thông đại chúng của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự - Một số thể loại văn bản báo chí: Bản tin (cấu trúc: Thời gian - Địa điểm - Sự kiện - Diễn biến - Kết quả); Phóng sự; Tiểu phẩm - Mục đích: Thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. - Tính thông tin thời sự - Tính ngắn gọn - Tính sinh động hấp dẫn Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Là ngôn ngữ được dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương (Văn xuôi nghệ thuật, thơ, kịch). Là ngôn ngữ được lựa chọn, trau chuốt và đạt giá trị nghệ thuật. - Mục đích: Không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. - Tính hình tượng - Tính truyền cảm - Thể hiện dấu ấn riêng của tác giả. Phong cách ngôn ngữ chính luận - Là ngôn ngữ dùng trong những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng, lập trường, thái độ về những vấn đề thiết thực, nóng bỏng của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, xã hội. - Mục đích: Tuyên truyền, cổ động, giáo dục, thuyết phục người đọc, người nghe để có nhận thức và hành động đúng. - Tính công khai về quan điểm chính trị - Tính chặt chẽ trong biểu đạt và suy luận - Tính truyền cảm, thuyết phục. Phong cách ngôn ngữ khoa học - Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học. Là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu. - Mục đích: Dùng để phổ biến khoa học, kĩ thuật. - Tính khái quát, trừu tượng - Tính lí trí, lô gíc - Tính khách quan, phi cá thể. Phong cách ngôn ngữ hành chính - Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính: giao tiếp, điều hành và quản lí xã hội. - Mục đích: giao tiếp giữa nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác. - Tính khuôn mẫu - Tính minh xác - Tính công vụ - Lưu ý: Một văn bản có thể thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ. Học sinh cần căn cứ vào mục đích để nhận biết và căn cứ vào xuất xứ ghi dưới văn bản và đặc trưng phong cách ngôn ngữ để lí giải cho chính xác và khoa học. 2.3.3.3. Yêu cầu nhận diện các thao tác lập luận trong văn nghị luận STT Thao tác lập luận Khái niệm Mục đích Giải thích - Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình. - Cấu trúc: A là B (A là đối tượng, B là đặc điểm, thuộc tính của đối tượng) Giúp người đọc (người nghe) hiểu nhận định được nêu. Phân tích - Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng. Làm rõ đặc điểm về nội dung, hình thức, cấu trúc và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài của đối tượng. Chứng minh - Chứng minh là đưa ra những cứ liệu - dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ một ý kiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng vào vấn đề. Giúp người đọc (người nghe) tin rằng vấn đề ấy là có căn cứ trong sự thật (hay lẽ phải). Chứng minh hướng về những người chưa rõ, chưa tin. So sánh - So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm. Làm sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác. Bình luận Bình luận là bày tỏ thái độ, quan điểm, bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng đúng hay sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và có phương châm hành động đúng. - Yêu cầu của việc đánh giá là sát đối tượng, nhìn nhận vấn đề toàn diện, khách quan và phải có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng. Giúp người đọc (người nghe) đánh giá hiện tượng (vấn đề) được chính xác, toàn diện và công bằng bằng những ý kiến chặt chẽ, sắc sảo và mới mẻ của riêng mình. Bác bỏ - Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý ki
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ren_luyen_ki_nang_giup_hoc_sinh_lop_12_lam_tot_phan_doc.doc