SKKN Rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy Toán điển hình
Trong nhiều năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng phát triển giáo dục. Trong Nghị quyết về: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” có khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo.”. Như vậy mục tiêu của giáo dục trong nhà trường không chỉ nhằm trang bị kiến thức cho học sinh mà còn phải dạy cho các em cách suy nghĩ, cách tư duy để các em có thể tìm được cách giải quyết các vấn đề gặp phải trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống. Phát triển năng lực tư duy cho học sinh là quan trọng và cần thiết.
Môn Toán ở Tiểu học gồm năm mạch kiến thức, trong đó “Toán điển hình” là nội dung đóng vai trò rất quan trọng xuyên suốt các mạch kiến thức của chương trình Toán tiểu học. Các dạng “Toán điển hình” nằm chủ yếu trong chương trình Toán 4, nội dung kiến thức Toán lớp 4 là nền tảng cho dạy học toán lớp 5 và ở các cấp học trên. Chính vì vậy việc rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy “Toán điển hình” sẽ giúp tư duy của học sinh bước đầu đi sâu vào bản chất của sự vật chứ không dừng ở tư duy trực quan như ở các lớp 1, 2, 3.
MỤC LỤC 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài: Trong nhiều năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng phát triển giáo dục. Trong Nghị quyết về: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” có khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo...”. Như vậy mục tiêu của giáo dục trong nhà trường không chỉ nhằm trang bị kiến thức cho học sinh mà còn phải dạy cho các em cách suy nghĩ, cách tư duy để các em có thể tìm được cách giải quyết các vấn đề gặp phải trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống. Phát triển năng lực tư duy cho học sinh là quan trọng và cần thiết. Môn Toán ở Tiểu học gồm năm mạch kiến thức, trong đó “Toán điển hình” là nội dung đóng vai trò rất quan trọng xuyên suốt các mạch kiến thức của chương trình Toán tiểu học. Các dạng “Toán điển hình” nằm chủ yếu trong chương trình Toán 4, nội dung kiến thức Toán lớp 4 là nền tảng cho dạy học toán lớp 5 và ở các cấp học trên. Chính vì vậy việc rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy “Toán điển hình” sẽ giúp tư duy của học sinh bước đầu đi sâu vào bản chất của sự vật chứ không dừng ở tư duy trực quan như ở các lớp 1, 2, 3. Với các lí do nêu trên tôi chọn “Rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy Toán điển hình” làm nội dung nghiên cứu của đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra một số biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy “Toán điển hình”. Giúp học sinh có được kỹ năng, kỹ xảo trong giải các dạng“Toán điển hình”ở lớp 4 và ở các lớp học trên, từ đó phát triển năng lực và thao tác tư duy toán học. Đồng thời rèn luyện cho học sinh khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống; làm tốt điều Bác Hồ căn dặn là “Học đi đôi với hành”. Quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình; phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quen làm việc một cách khoa học; rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, chặt chẽ, chính xác...; có được lòng yêu thích, niềm say mê học toán. 1.3.Đối tượng nghiên cứu: Các kỹ năng tư duy thông qua giải “Toán điển hình” của học sinh lớp 4. 1.4.Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp chủ yếu: Phân tích, tổng hợp, phân loại, thực nghiệm. Các phương pháp hỗ trợ: Vấn đáp, điều tra, trắc nghiệm. 2. Néi dung s¸ng kiÕn kinh nghiÖm 2.1. Cơ sở lí luận: - Mục tiêu cơ bản của bậc học phổ thông nói chung, bậc học tiểu học nói riêng là hình thành và phát triển được nền tảng tư duy của con người trong thời đại mới. Trong đó, mục tiêu phát triển năng lực giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo ở người học được vô cùng coi trọng. Điều này thể hiện trong nhà trường chính là thông qua dạy kiến thức để hình thành và phát triển năng lực tư duy, phát triển trí tuệ và các phẩm chất nhân cách khác của học sinh. - Phát triển tư duy cho học sinh giúp học sinh có cơ hội học tập tốt hơn, rèn kỹ năng tư duy không chỉ đáp ứng quá trình nhận thức, chiếm lĩnh những tri thức khoa học nền tảng với yêu cầu ngày một cao, mà nó còn đáp ứng đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ học tập, hoạt động thực tiễn ngày một cao và phức tạp đối với sự phát triển toàn diện nhân cách cá nhân, đồng thời thích ứng nhanh với cuộc sống năng động ngày nay ngay từ khi còn là học sinh đầu bậc học phổ thông. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm - “Toán điển hình” giữ một vị trí quan trọng trong chương trình toán 4: Góp phần hệ thống hóa về củng cố có kiến thức, kỹ năng về số tự nhiên, phân số, yếu tố hình học và 4 phép tính (+, - , , : ) với các số đã học làm cơ sở để học tiếp ở lớp 5 và đặt nền móng cho quá trình đào tạo tiếp theo ở các cấp học cao hơn; nó hình thành kỹ năng tính toán, giúp học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực, hình thành phát triển hứng thú học tập và năng lực phẩm chất trí tuệ của học sinh ngay từ góp phần phát triển trí thông minh, óc suy nghĩ độc lập, linh hoạt và sáng tạo. - “Toán điển hình” trong chương trình toán 4 bao gồm các dạng: + Tìm số trung bình cộng. + Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. + Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó. + Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó. + Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích hình bình hành, hình thoi.) - Dạy học toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán học vào các tình huống thực tiễn đa dạng, những vấn đề thường gặp trong đời sống.Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của con người lao động trong tương lai. - Giai đoạn các lớp 4;5 là giai đoạn học tập sâu (so với giai đoạn trước), học sinh vẫn học tập các kiến thức và kỹ năng cơ bản của môn Toán nhưng ở mức sâu hơn, khái quát hơn, tường minh hơn. Do đó tính trừu tượng, khái quát của môn Toán ở các lớp 4;5 được nâng lên một bậc (so với các lớp 1;2;3). Bởi vậy khi lên lớp 4 – là giai đoạn học sâu với yêu cầu cao hơn, với khối lượng kiến thức nhiều hơn. Như vậy các em học sinh rất khó nắm bắt và khá lúng túng trong việc giải toán, đặc biệt là giải “Toán điển hình”. - Đối với học sinh: Môn toán là môn học đòi hỏi sự kiên trì vượt khó nên học sinh rất dễ nản chí. - Trình độ nhận thức học sinh không đồng đều: Khảo sát chất lượng đầu năm về giải “Toán điển hình”: + Nhóm thực nghiệm: (lớp 4A: 35học sinh) Kết quả Tổng số Điểm 9-10 Điểm7- 8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 35 HS 22,8 % 34,28 % 31,4 % 11,9% + Nhóm đối chứng: (Lớp 4B: 31 học sinh) Kết quả Tổng số §iÓm 9-10 §iÓm 7-8 §iÓm 5-6 §iÓm díi 5 31 HS 19,35 % 32,26 % 32,26 % 16,13 % 2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Mọi môn học ở tiểu học đều có tiềm năng phát triển tư duy cho học sinh. Tuy nhiên môn toán không chỉ đơn thuần rèn kỹ năng tính toán, giải toán, mà quan trọng hơn là nhằm phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận cho học sinh, đặc biệt là đối với “Toán điển hình”. Để góp phần hình thành kỹ năng tư duy cho học sinh và nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học, tôi đã thực hiện một số biện pháp nhằm rèn kỹ năng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua dạy “Toán điển hình”. Biện pháp 1: Chuẩn bị cho giờ dạy giải dạng toán điển hình. Để có được giờ dạy giải toán đạt kết quả tốt, phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho mọi học sinh đều chủ động học tập và phát huy tính tích cực, sáng tạo cao nhất. Chính vì lẽ đó, cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu đáo. *Sự chuẩn bị của giáo viên: - Trước khi dạy bất cứ một dạng toán nào, trong khối chúng tôi đều thống nhất là dành thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng toán đó, từ bài dạy kiến thức mới đến bài luyện tập, từ bài trong sách giáo khoa đến bài trong vở bài tập để xây dựng được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn gọn, học sinh dễ tiếp thu bài hơn. - Ví dụ khi dạy dạng toán: "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Học sinh được làm quen với kiểu bài mà tỉ số của hai số được nêu dưới dạng thức: "Tỉ số ở dưới dạng số tự nhiên" và "Tỉ số ở dưới dạng phân số". Thông thường học sinh hay mắc ở dạng tỉ số là phân số nên giáo viên dạy cần lưu ý giảng cho học sinh hiểu. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra sự biểu diễn trên sơ đồ tóm tắt bài toán. Đây là loại toán khó đối với học sinh lớp 4 nên giáo viên phải giúp học sinh ghi nhớ: + Tổng và tỉ số của hai số phải tìm có thể là số tự nhiên, phân số, các dạng số đo đại lượng. + Tỉ số của hai số có thể được nêu dưới những dạng thức sau: .Số này gấp mấy lần số kia. .Số này bằng mấy phần số kia. .Thương của hai số phải tìm, hoặc thương của hai số có liên quan đến các số phải tìm. .Phân số được coi là thương của số bị chia và số chia. .Tỉ số của hai số. Định hướng các bước chủ yếu để giải dạng toán này: Bước 1: Xác định tổng của hai số phải tìm (hoặc tổng của hai số có liên quan đến các số phải tìm). Bước 2: Xác định tỉ số của hai số phải tìm (hoặc tỉ số của hai số có liên quan đến các số phải tìm). Biểu thị từng số đó thành số các phần bằng nhau tương ứng. Bước 3: Tìm tổng số phần bằng nhau (lấy số phần biểu thị số lớn cộng với số phần biểu thị số bé). Bước 4: Tìm giá trị một phần đó.(Thực hiện phép chia tổng của hai số phải tìm cho tổng số phần bằng nhau). Bước 5: Tìm mỗi số theo số phần được biểu thị. Bước 6: Thử lại và đáp số. * Sự chuẩn bị của học sinh: Đối với học sinh cần rèn luyện ý thức thích học toán, có hứng thú, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán và phải có đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho học toán, chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Đặc biệt với học sinh tiếp thu tốt trong những buổi bồi dưỡng riêng biệt cần có thêm sách giáo khoa về luyện giải, sách giáo khoa nâng cao... và không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ thống logic từ lớp dưới. Từ bài học trước phải nắm vững kiến thức để làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh chủ động tự tin trong việc tiếp thu kiến thức bài mới. Biện pháp 2: Giúp học sinh nắm vững lí thuyết cơ bản và thường xuyên củng cố các kiến thức đã học. * Giải toán là một phần công việc hàng ngày của học sinh. Số lượng bài tập thực hành trong mỗi tiết học của sách giáo khoa Toán 4 thường có từ 3 – 5 bài tập, trong đó “Toán có lời văn thuộc các dạng toán điển hình” chiếm lượng bài. Với thời lượng 40 phút một tiết học không phải tất cả học sinh đều có thể hoàn thành tất cả các bài tập ngay trong tiết học. Chính vì vậy, tôi thường lựa chọn các bài tập điển hình đặc trưng cho phần lí thuyết của tiết học đó để học sinh dễ dàng tự vận dụng kiến thức vừa học vào giải toán. Tôi chú trọng tới những bài toán có lời văn: Yêu cầu học sinh đọc thật kỹ đề toán để xác định dạng toán; dự đoán, kiểm tra và sàng lọc các dự tính giải toán; thiết lập mối liên hệ giữa “cái đã cho” và “cái phải tìm”; tìm ra cách tính toán và các bước để đi đến đáp số. Tôi thường dành thời gian để học sinh tranh luận và thực hành giải toán, sau đó mời học sinh chữa bài, yêu cầu những học sinh khác nhận xét về bài giải của bạn (Tôi thường nêu câu hỏi để học sinh khi trả lời phải nhắc lại kiến thức mới học nhằm củng cố, ghi nhớ kiến thức đó). Với những học sinh tiếp thu tốt, tôi khuyến khích các em suy nghĩ, tìm tòi thêm các cách giải khác (có thể trình bày miệng trước lớp). Cuối cùng giáo viên là người nhận xét và chốt lại cách giải đúng và hay nhất. *Hai vấn đề quan trọng đặt ra trong việc giải toán là: - Nhận dạng bài toán. - Lựa chọn phương pháp và vận dụng kiến thức thích hợp để giải toán. Ví dụ : Khi học bài toán về “Trung bình cộng”; với bài toán: Một đoàn xe ô tô chuyển thực phẩm vào thành phố, trong đó 5 ô tô đi đầu, mỗi ô tô chuyển được 36 tạ và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được 45 tạ. Hỏi trung bình mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tấn thực phẩm?. + Tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài xác định rõ dạng toán rồi thảo luận nhóm để tóm tắt bài toán, thiết lập mối liên hệ giữa “cái đã cho” và “cái phải tìm”: 4 ô tô 5 ô tô Tóm tắt: 36tạ 45tạ ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn ? tấn 36tạ 36tạ 36tạ 36tạ 45tạ 45tạ 45tạ + Yêu cầu các nhóm thảo luận kế hoạch giải: - Muốn tìm được trung bình mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tấn ta phải tìm cái gì trước? (Muốn tìm được trung bình mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tấn phải tìm được tổng khối lượng thực phẩm chuyển được và tổng số xe của cả đoàn). - Để tìm được trung bình mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tấn ta phải vận dụng kiến thức nào? (Áp dụng quy tắc “Tìm số trung bình cộng của nhiều số” để tìm ra đáp số bài toán.) - Lưu ý HS cần xác định rõ số số hạng trong bài toán : 5 + 4 = 9 (ô tô). Bởi vì với kiểu bài như thế này rất nhiều HS nhầm số số hạng là 2. + Mời học sinh trình bày trên bảng lớp, các học sinh khác nhận xét, cuối cùng giáo viên nhận xét và chốt lại đáp án đúng. Quá trình học sinh tự vận dụng kiến thức được học vào giải bài tập giúp các em ghi nhớ sâu hơn phần nội dung kiến thức đó cũng như ghi nhớ cách giải bài tập của nội dung kiến thức được học. Đồng thời việc tìm các cách giải khác nhau giúp học sinh từng bước phát triển được năng lực tư duy, rèn phương pháp kỹ năng suy luận. Tạo cho học sinh có thói quen suy nghĩ độc lập, linh hoạt, thích tìm tòi, sáng tạo. Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng toán và định hướng phương pháp giải. * Đối với học sinh tiểu học tốt nhất là dạy cho các em biết làm đúng, hiểu đúng ngay từ đầu, không để các em hiểu sai, làm sai từ đầu rồi lại rất khó khăn trong việc sửa sai. Vì vậy mỗi khi dạy một nội dung mới, một dạng toán mới người giáo viên cần đưa ra mẫu chuẩn và gợi ý để học sinh suy nghĩ tự giải quyết vấn đề đồng thời tìm cách trình bày gọn, rõ ràng, đầy đủ, chính xác. Sau đó giáo viên chốt lại phương án chuẩn nhất, thông qua mẫu chuẩn đó giúp học sinh nhận dạng được loại bài tập và tìm ra phương pháp giải sát hợp. Ví dụ: Cho hình chữ nhật có chiều rộng bằng chiều dài. Chiều dài hơn chiều rộng 45 cm. Tìm diện tích của hình chữ nhật đã cho? - Trước hết yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài , xác định rõ “cái đã cho” và “cái phải tìm” trong bài toán: + “Cái đã cho”: Hình chữ nhật: Chiều rộng = chiều dài Chiều dài > chiều rộng: 45 cm + “Cái phải tìm”: Diện tích của hình chữ nhật đã cho. - Gợi ý để học sinh tự suy nghĩ và suy luận: Để tìm được diện tích của hình chữ nhật phải áp dụng công thức S = a x b ( S là diện tích; a là số đo chiều dài; b là số đo chiều rộng hình chữ nhật) → Tìm diện tích phải biết được số đo chiều dài và số đo chiều rộng của hình chữ nhật đó. Đề bài chưa cho biết số đo chiều dài và chiều rộng, nhưng cho biết mối quan hệ giữa chúng: Chiều rộng = chiều dài; Chiều dài > chiều rộng 45 cm → Bài toán này liên quan đến dạng toán “Tìm hai số khi hiết hiệu và tỉ số của hai số đó”. Từ đó học sinh biết vận dụng cách giải dạng toán này để giải tìm được số đo chiều dài, chiều rộng rồi tìm được diện tích hình chữ nhật đã cho (cái phải tìm – yêu cầu của bài toán ). Khi học sinh đã xác định được bài toán thuộc dạng toán “Tìm hai số khi hiết hiệu và tỉ số của hai số đó” tôi yêu cầu 1- 2 em nêu lại các bước cơ bản để giải dạng toán này giúp các em lập được kế hoạch giải và giải được bài toán. B1: Xác định hiệu của hai số phải tìm: Chiều dài > chiều rộng: 45 cm. B2: Xác định tỉ số của hai số phải tìm: Chiều rộng = chiều dài. (Gợi ý để HS dựa vào tỉ số biểu thị số đo chiều rộng và chiều dài thành số phần bằng nhau tương ứng) B3: Tìm hiệu số phần bằng nhau B4: Tìm giá trị một phần đó B5: Tìm mỗi số theo số phần được biểu thị. S=? -Tóm tắt: Chiều rộng: 45cm Chiều dài: Từ sơ đồ ta có hiệu số phần bằng nhau là: 5 – 2 = 3 (phần) Giá trị một phần là: 45 : 3 = 15 (cm) Số đo chiều rộng là: 15 2 = 30 (cm) Số đo chiều dài là: 15 5 = 75 (cm) Diện tích hình chữ nhật là: 75 30 = 2250 (cm²) Đáp số: 2250 cm² Ví dụ 2: Khối bốn có 4 lớp với tổng số học sinh là 156 em. Lớp 4A nhiều hơn lớp 4B là 10 em. Lớp 4C ít hơn lớp 4A là 4 em. Lớp 4B và lớp 4D có số học sinh bằng nhau. Hỏi mỗi lớp có bao nhiêu em ? - Với bài toán này tôi gợi ý để học sinh suy nghĩ và suy luận theo hướng: Nếu chúng ta áp dụng nguyên lí biến đổi sơ đồ đoạn thẳng thành các đoạn thẳng bằng nhau thì ta sẽ có 4 cách giải khác nhau. (Tôi dành thời gian để các em thảo luận tìm ra các cách biến đổi sơ đồ, sau đó đại diện các nhóm trình bày trên bảng, cho HS nhận xét và giáo viên chốt lại những phương án đúng.) Đầu tiên ta tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng : ? 4A 4B 4C 4D 4 10 ? ? ? 156 học sinh - Yêu cầu học sinh quan sát kỹ sơ đồ để tìm mối liên hệ giữa các đại lượng trong bài toán ª xác định được bài toán trên liên quan đến dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” rồi căn cứ vào cách giải dạng toán đó tìm ra các bước giải bài toán. Cụ thể như sau: Cách giải 1 : (Biến thành 4 đoạn thẳng bằng nhau và bằng đoạn thẳng biểu thị số học sinh lớp 4B) Số học sinh lớp 4C nhiều hơn số học sinh lớp 4B (4D)là: 10 - 4 = 6 (em) Theo bài ra ta có sơ đồ : 4A 4B 4C 4D ? 6 10 ? ? ? 156 học sinh Nếu lớp 4A bớt 10 học sinh, lớp 4C bớt 6 học sinh thì số học sinh của 4 lớp bằng nhau và bằng số học sinh của lớp 4B hoặc 4D. Số học sinh lớp 4B và cũng là số học sinh lớp 4D là : (156 - 10 - 6) : 4 = 35 (em) Số học sinh lớp 4A là : 35 + 10 = 45 (em) Số học sinh lớp 4C là : 35 + 6 = 41 (em) Đáp số : 4A : 45 em; 4B : 35 em 4C : 41 em; 4D : 35 em. Cách giải 2 : (Biến thành 4 đoạn bằng nhau và bằng đoạn thẳng biểu thị số học sinh lớp 4A). Thêm vào lớp 4B và 4D mỗi lớp 10 học sinh, thêm 4 học sinh vào lớp 4C thì số học sinh của 4 lớp bằng nhau và bằng số học sinh của lớp 4A . Ta có sơ đồ Số học sinh lớp 4A là : (156 + 10 + 4 + 10) : 4 = 45 (em) Số học sinh lớp 4B và cũng là số học sinh lớp 4D là : 45 - 10 = 35 (em) Số học sinh lớp 4C là : 45 - 4 = 41 (em) Đáp số : 4A : 45 em; 4B : 35 em 4C : 41 em; 4D : 35 em. Thông qua việc gợi ý để học sinh tìm ra nhiều cách giải khác nhau giúp học sinh biết vận dụng các phương pháp giải toán một cách thành thạo, đồng thời học sinh hiểu được “giải toán điển hình” nhiều khi có thể vận dụng nhiều kiến thức để giải với nhiều cách khác nhau. Việc giải toán không chỉ nhằm rèn luyện kỹ năng giải bài tập toán mà còn phát triển năng lực, thao tác tư duy toán học cho học sinh. * Song song với việc tìm hiểu kỹ đề bài để nhận biết dạng toán cần giúp cho học sinh nắm được các bước để giải quyết vấn đề của một bài toán và rèn luyện kỹ năng thực hiện các bước đó một cách thành thạo; Làm cho học sinh nắm được và có kỹ năng vận dụng các phương pháp cũng như các thủ thuật thích hợp với từng dạng toán để đi đến kết quả mong muốn. Tôi thường xuyên rèn cho học sinh có thói quen giải “Toán điển hình” theo bốn bước cơ bản: + Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề bài .(Đọc kỹ đề bài và tóm tắt bài toán dưới một số hình thức như: sơ đồ đoạn thẳng, lời văn, kí hiệu, sơ đồ hình vẽ, ) + Bước 2: Lập kế hoạch giải (Phân tích bài toán để tìm cách giải, các bước giải để đến đáp số ) + Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.(Thực hiện tính toán và trình bày bài giải) + Bước 4: Kiểm tra bài giải, đánh giá cách giải.(Thử lại theo các dữ kiện đề bài cho” a. Tìm hiểu kỹ đề bài: - Tôi yêu cầu học sinh đọc thật kỹ đề toán, xác định rõ đâu là “những cái đã cho”, đâu là “cái phải tìm”, đâu là “các mối quan hệ”?. Trừ những bài toán quá phức tạp thì nói chung tôi luôn tập cho học sinh thói quen tự tìm hiểu đề toán, tránh tình trạng học sinh vừa đọc đề xong đã vội vàng bắt tay vào giải ngay. - Mỗi đề toán đều có ba yếu tố cơ bản: Đó là “những cái đã cho”, “cái phải tìm” và “các mối quan hệ”. Muốn giải được bất cứ bài toán nào học sinh cũng phải xác định cho đúng ba yếu tố cơ bản ấy. Tôi luôn gợi ý hướng cho học sinh tập trung suy nghĩ vào những từ quan trọng của đề toán.Học sinh cần phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào những vấn đề mấu chốt, phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu trong đề toán. Sau đó tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, hình vẽ hoặc ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn, cô đọng...., thông qua đó để thiết lập mối liên hệ giữa “cái đã cho”, “cái phải tìm” và “các mối quan hệ”. Bước tự tìm hiểu kỹ đề bài sẽ hình thành cho các em kỹ năng phân tích và tổng hợp, tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn; cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn. Ví dụ: Một bao gạo cân nặng 50kg, một bao ngô cân nặng 60 kg. Một ô tô chở 30 bao gạo và 40 bao ngô. Hỏi xe ô tô đó chở tất cả bao nhiêu ki-lô-gam gạo và ngô ? Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện bài toá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ren_ky_nang_tu_duy_cho_hoc_sinh_lop_4_thong_qua_day_toa.doc